Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2019

Những con số

Là dân kỹ thuật, tiều phu quen đánh giá sự việc qua các số liệu đáng tin cậy.
Nguồn dữ liệu chính xác nhất về quốc tế là của Cơ quan Tình báo Trung ương Mỹ CIA, gọi là World Fact Book [1]. Những nguồn khác của Ngân hàng thế giới World Bank hoặc Statista.com [2] cũng rất hay.
Thấy nhiều bạn hay bị các con số đánh lừa, tiều phu xin mạo muội đả thông một số hiểu lầm.
Có người cho là Trung Quốc đã vượt Mỹ, trở thành cường quốc kinh tế số một, dẫn đầu GDP (Gross Domestic Product). Sai!
Nominal GDP = Official Exchange Rate GDP (OER-GDP) là tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ mà mỗi quốc gia sản xuất ra trong một năm. Ví dụ như bao nhiêu chiếc ô-tô, bao nhiêu tấn thóc, bao nhiêu hợp đồng bảo hiểm v.v. quy ra USD.
Đây là GDP chính thức, nếu chia cho đầu người dân sẽ ra cho GDP/Capita (Capita = đầu người), gọi là thu nhập theo đầu người. Việt Nam năm 2017 đạt OER-GDP= 202 tỷ USD, nếu chia cho 96 triệu dân thành 2100 USD/đầu người/năm. (Xem đồ họa)
Vì mức sống ở các nước chênh lệch nên sức mua của đồng USD giữa các nước hậu công nghiệp, các nước công nghiệp và các nước đang phát triển chênh nhau dữ dội. Ở các nước hậu công nghiệp, mức sống bằng nhau nên một đồng USD có sức mua tương đương nhau. Sức mua của đồng USD ở Tây Âu chỉ xấp xỉ từ 1 đến1,1, thậm chí ở những nước giàu hơn Mỹ như Na-Uy thì sức mua của đồng USD lại giảm đi, chỉ bằng 0,98.
Ở các nước mới công nghiệp như Croatia hay Trung Quốc, sức mua của đồng USD khoảng 1,5 đến 2 lần. Các nước đang phát triển như Việt Nam thì hệ số sức mua là 3 - 4. Ở Châu Phi đen chậm phát triển, sức mua của đồng USD xấp xỉ 5-6 lần. Càng lạc hậu, tỷ số này càng cao. Ví dụ 1 USD ở Đức không đủ uống 1/3 cốc cà phê buổi sáng, nhưng ở Việt Nam có thể ăn đủ bữa trưa, còn ở Công-Gô thì gia đình 3 người ăn cả ngày. Như vậy cu Tí cầm 1USD thì sống ở VIệt Nam bằng cu Bill tiêu 3,2 đồng bên Mỹ. Nhưng Tý mang 1USD sang Mỹ thì vẫn là 1USD.
Vì thế nên các nhà kinh tế đưa ra chỉ số PPP-GDP (Purchasing power parity), có nghĩa là tính theo sức mua của đồng USD tại nước đó. Nếu đem chia PPP-GDP này cho đầu người thì sẽ ra cái gọi là PPP-GDP/Capita. Thu nhập theo sức mua này thể hiện đúng mức sống trong nước, trong khi OER-GDP là sức mạnh kinh tế ra bên ngoài.
Vì giá sinh hoạt của VN thấp hơn Mỹ gấp 3,2 lần nên GDP theo sức mua (PPP) của VN là 202 x 3.2 = 647 tỷ USD. Chia cho 96 triệu, mối người Việt coi như có hơn 6.700 US/năm để ăn, học hành, đi lại, chơi Phây v.v. Nhưng nếu để nhập máy móc ở nước ngoài thì Việt Nam vẫn chỉ có 202 tỷ USD.
Nước Mỹ năm 2017 đạt hơn 19 ngàn tỷ USD OER-GDP, và PPP-GDP cũng như vậy, đứng đầu thế giới. Chia cho 325 triệu chú Sam, thu nhập đầu người là 59.000 USD.
1,4 tỷ người Trung Quốc cày cả năm được 12 ngàn tỷ USD. Như vậy mỗi chú Khách làm ra khoảng 8.600 USD. Nhưng vì TQ là nước công nghiệp ở hạng trung bình với mức sống thấp, dẫn đến sức mua của đồng USD là 1,92. Thế là Trung Quốc đương nhiên có GDP-PPP là 12 x 1.92 = 23 ngàn tỷ USD để chia nhau tiêu trong nước và đi Việt Nam ăn tôm biển….Nhưng để vào Nasdaq hay mua động cơ Boeing, mua máy ly tâm Siemens thì họ chỉ có 12 ngàn tỷ USD mà thôi.
Nếu coi liên minh EU là một thực thể kinh tế, với OER-GDP= 17 ngàn tỷ USD thì sức mạnh kinh tế của Trung Quốc chỉ đứng thứ ba thế giới.
Nhưng thu nhập đầu người của Trung Quốc (theo sức mua) là 16.700 USD chỉ xếp thứ 108 trên 229 nước.
Đó là tiền trong túi. Số tiền đó được phân phối bình đẳng hay không? phúc lợi xã hội tốt không? Lại là vấn đề khác. Cơ quan UNDP của LHQ đưa ra chỉ số phát triển con người (Human Development Index HDI) tính cả mức thu nhập theo GDP, nhưng đưa thêm các hệ số chất lượng y tế, sức khỏe văn hóa và giáo dục vào đó [3]. HDI, với chỉ số lý tưởng là 1, phản ánh đầy đủ hơn trình độ văn minh của mỗi quốc gia.
Tôi đã đến Guinea Xích đạo là nước xuất khẩu dầu mỏ với thu nhập đầu người là 36.000 USD/năm. Ở đó dân chúng sống lầm than cơ cực, trong khi giới lãnh đạo phá tiền như nước. HDI của nước này chỉ đạt 0,591, xếp thứ 141/189, trong khi thu nhập đầu người của họ xếp thứ 55.
Chỉ số cao nhất hiện nay nằm ở Na-Uy: 0,953. Các nước hậu công nghiệp đều có chỉ số HDI trên 0,9. Châu Á có Nhật, Nam Hàn, Singapore và Hongkong tham gia nhóm này.
Các nước công nghiệp như Croatia, Hungary, Balan đều có HDI trên 0,8.
Từ 0.7 đến 0,8 là HDI của các nước đang phát triển và…không cần ngạc nhiên, Trung Quốc nằm trong nhóm này với HDI = 0,751 (xếp thứ 86).
Các nước đang phát triển chậm thì có chỉ số HDI dưới 0,7. Các nước lạc hậu thì từ 0,4 đến 0,55.
Giờ tán chuyện nhà. Có người gọi đểu Việt Nam là xứ Đông Lào, cho rằng ta kém cả Lào. Sai!
Theo thống kê của CIA và cả WB thì Lào có GDP theo đầu người cao hơn VN chút đỉnh, không đáng kể. Nhưng nếu xét theo HDI thì Việt Nam với 0,696 hơn hẳn Lào, 0,601. Việt Nam xếp thứ 116 nằm ở mâm trên của nhóm U 0,7 cao hơn hẳn thằng em, xếp thứ 139, ngồi mâm cuối .
An ủi quá, vì Trường Sơn Tây vẫn phải học Trường Sơn Đông. 
Nhưng kể cả HDI cũng chỉ nói lên tiềm lực vật chất của một quốc gia. Các nước vùng vịnh với những ông lãnh chúa, các đạo luật khắc nghiệt về tự do cá nhân, chèn ép phụ nữ vẫn đạt HDI trên 0,8, nhờ vào chỉ số thu nhập cao chót vót và các dịch vụ y tế, giáo dục miễn phí toàn dân.
Tôi có bạn bè làm việc cho „Phóng viên không biên giới“ (RSF) hay „Ân xá quốc tế“(AI). Họ thực sự là những người công tâm và không bị chỉ đạo của bất cứ nhà nước nào. Do vậy mọi cáo buộc rằng các tổ chức này là tay sai của thế lực nọ kia là vô trách nhiệm.
Các tổ chức này lập ra những chỉ số về dân chủ hay tự do báo chí để thúc đấy quyền con người toàn cầu. Bảng xếp hạng của họ được quốc tế công nhận. Vì thế ma nước Qatar giàu có, chiếm chỉ số HDI và GDP khá cao, phải ngậm bồ hòn cải cách luật nữ quyền, luật lao động v.v. nhằm được đăng cai giải bóng đá 2022.
Theo bảng xếp hạng tự do báo chí 2018 của RSF[4] thì Trung Quốc đạt 176/180 còn đứng sau Việt Nam một bậc và chỉ cách ông đội sổ Bắc Triều Tiên (180) có 4 chỗ.
Giả sử rằng Trung Quốc từ 12 ngàn tỷ USD cứ tăng trưởng 7%/năm, Mỹ từ 19 ngàn tỷ cứ tăng trưởng 3-4%/năm thì lúc nào đó, họ sẽ đuổi kịp Mỹ về Nominal GDP, khỏi cần nhân hệ số sức mua.
Đối với chỉ số thu nhập đầu người, chỉ số HDI và kể cả „Trò chơi dân chủ“ như “Tự do báo chí” thì chú Tập còn phải ...mỏi cổ mới theo được Nam Hàn, đừng nói tới Mỹ hay Đức.
Tuy còn thua xa Mỹ, Nhật, EU về nhiều mặt, nhưng điều đó không có nghĩa là Trung Quốc chưa thể đe dọa vị thế của Phương Tây cả về khoa học, kinh tế và quyền lực quốc tế.
Trung Quốc tuy vẫn là một công xưởng lớn, cung cấp từ cái bút bi đến màn hình LED cho cả thế giới, nhưng cũng đã đi sâu vào công nghệ tin học, sinh học, trí tuệ nhân tạo v.v. Trong số 20 công ty WEB lớn nhất thế giới, 11 là của Mỹ và 9 là của Trung Quốc. Trong số 260 doanh nghiệp công nghệ giá trị trên 1 tỷ USD, gần phân nửa (125) là của Mỹ, 77 của Trung Quốc, còn châu Âu chỉ có khoảng 30 (1). Bắc Kinh đang biến nhiều nước Nam Âu và Đông Âu thành con nợ, đang tung tiền để mua thuộc địa ở Châu Phi. Vốn ở đâu ra?
Câu trả lời nằm trong bản chất của chế độ độc tài mà tôi từng gọi là “Trung Quốc Xã”. Chỉ số HDI, bên cạnh thu nhập đầu người, còn xét đến hy vọng thọ trung bình, thời gian đến trường v.v. nên trong đó đã bao gồm cả sự chênh lệch giàu nghèo. Cùng là nước XHCN như Cuba hoặc cựu XHCN như Serbia, tuy có thu nhập bình quân đầu người thấp hơn Trung Quốc, nhưng cả hai đều có chỉ số HDI cao hơn Trung quốc nhiều. Trong 1,4 tỷ người Hoa Lục, khoảng 100 triệu người có mức sống của Tây Âu, 400 triệu người no đủ, 900 triệu người nghèo khổ, trong đó có khoảng 80 triệu người nghèo đói thực sự (2). Sự đói nghèo của 900 triệu người này lại là nguồn lực phát triển của đế quốc Trung Hoa.
UNDP và đại học Oxford có lập ra bảng xếp hạng nghèo đói toàn cầu gọi là Multidimensional Poverty Index MPI(3).. Danh sách này chỉ bao gồm khoảng 100 nước nghèo và đang phát triển, được dẫn đầu bằng các nước châu Phi như Niger, Nam-Xu Đăng và Chad. Ở châu Âu chỉ còn Albania và 3 nước cộng hòa của Nam-Tư cũ đứng ở cuối bảng. Cuba nghèo đều, nhưng không để ai đói nên không bị vinh danh. Một bảng xếp hạng rất minh bạch.
Điều nhục nhã là cả Trung Quốc và Việt Nam đều còn nằm ở đây. Trong năm 2018, Đông á còn 117 triệu người có thu nhập dưới 1,9 USD/ngày, chiếm 6% dân số. Tỷ lệ này ở Việt Nam là 4,7% , ở Trung Quốc = 4%, tức là 56 triệu dân (xem trang 57-60).
Con số 4,5 triệu người Việt thiếu ăn chắc không xa thực tế. Chỉ có các quan tỉnh ngồi trong những tòa biệt thự kiến trúc nửa Gothic, nửa hiện đại sẽ chối cãi. Nhưng Trung Quốc coi mình là siêu cường, tự đắc ban phát viện trợ phát triển cho các nước nghèo Á, Phi, Mỹ La tinh, vung tiền mua các công ty công nghệ phương tây mà để 56 triệu đồng bào chỉ sống bằng 700USD/năm là gì? Đây chính là điều quái dị chưa từng thấy trong lịch sử. Hitler xây dựng chủ nghĩa Xã hội Quốc gia mà không để một người Đức nào nghèo, chỉ bóc lột thuộc địa.
Tiềm lực của đế chế Trung Hoa không chỉ do bóc lột dân mình, mà còn ở thể chế. Khác với chủ nghĩa tư bản tự do, tư bản độc tài không những nắm nhiều nguồn lực quốc gia hơn, mà còn toàn quyền định đoạt việc sử dụng tài sản đó. Trong khi Trump đang khốn khổ với hai viện để có 18 tỷ cho bức tường Mexico thì Tập chỉ hất đầu là có 60 tỷ “viện trợ” cho châu Phi.
Ở xứ dân chủ, chính phủ chi tiêu đồng nào cũng phải được quốc hội chuẩn y. Xin chớ ai nghĩ rằng ở phương Tây, “Quốc hội là dân”, như cựu chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng từng tuyên bố (4). Quốc hội phương tây cũng đại diện cho các đảng phái chính trị, được hậu thuẫn bởi các thế lực kinh tế. Nhưng sự đa nguyên đó tự tạo ra cơ chế kiểm soát, dù là kiểm soát xài tiền chùa. Tất nhiên đảng nào cũng muốn lấy lòng dân và thế là phúc lợi xã hội luôn thành miếng bánh to nhất trong các ngân sách. Đơn cử: chi phí y tế ở các nước văn minh thường trên 10% GDP (Mỹ 17%, đứng hàng đầu, Thụy Điển 12%).
Nền y tế Trung Quốc chỉ được đầu tư 5,5% GDP, xếp thứ 125/195 nước. (Cu ba nghèo hơn nhiều nhưng xếp hạng 12/195, với 11%). Việt Nam đứng trên Trung Quốc, xếp thứ 79 với 7,10% (5). Có lẽ 7,10% này đã bao gồm tiền lót tay của toàn dân, cho từ mũi kim tiêm đến ca mổ.
Nước Đức từ bỏ điện hạt nhân để chuyển sang năng lượng xanh. Quốc hội cãi nhau mãi mới phê duyệt cho làm ba trục điện cao thế tổng cộng 4.000km để đưa năng lượng gió và nắng từ biển Bắc về vùng công nghiệp nam Đức. Kéo cao thế qua rừng thì bị bọn môi trường chống vì sợ chết hết chim. Đào đường ngầm thì nông dân chửi là từ trường ảnh hưởng đến rau mầu. Tốn bao tiền bồi thường và hầu tòa 5 năm vẫn chưa xong. Gã Trung Quốc nghe vậy cười khẩy: Nước tao một năm là xong hết, dân sao lại đòi cãi nhà nước? Ông nông dân Đức nghe vậy chỉ tay vào đầu: Nhà nước cũng là một thực thể kinh tế, khác méo gì tao?
Trò “dân chủ kinh tế” này thì cả tư bản đỏ lẫn tư bản trắng đều ghét. Ở phương tây, tư bản hay nhà nước cũng phải ra tòa kiện với lão nông dân, có khi thua vãi. Ở xứ độc tài thì cả vạn lão nông cũng sẽ bị đập chết ngoéo. Đó chính là sức mạnh của Trung Quốc.
Chỉ vài con số trên đã cho thấy, Trung Quốc tuy còn xa mới thành một cường quốc theo đúng nghĩa. Nhưng mối đe dọa tiềm tàng của nó khiến nhiều người lo ngại.
1,4 tỷ người Trung Quốc cũng có quyền được giàu có như 5 triệu người Na-Uy. Khi đó dù với Nominal-GDP là 100.000 tỷ USD (bằng 5 nước Mỹ), nhưng dưới một thể chế văn minh, dân chủ, sẽ không ai phải sợ và ghét người Hoa.
Nhà tư bản Đức thà thua ông nông dân khó chịu kia, hơn là đưa luật rừng Bắc-Kinh vào Đức.

Người Nam Kỳ không lập gia phả

Đó là một câu khẳng định chắc như cây đinh đóng cái cột nhà
Gia phả là gì?家譜 gia phả hoặc gia phổ là phả hệ của một dòng họ,gia đình,là cuốn sách chép tên ông bà tổ tiên,con cháu của một dòng tộc nào đó
Người Bắc Kỳ xưa rày ta nghe tới là thói "lũy tre làng",có gia phả,có dòng tộc nghiêm ngặc,có trưởng tộc,có nhà thờ tổ ,mả tổ ,thủy tổ và những quy định ná thở với con cháu .Nhưng với dân Nam thì không có,hoặc có hời hợt,hình thức
Dân Nam Kỳ có câu cười Bắc Kỳ là "Tổ tiên đại bác thụt chưa tới"
Chúng ta biết tổ tiên khai phá dựng lên Nam Kỳ Lục Tỉnh là dân khai hoang,kêu là lưu dân
流民lưu dân là dân phiêu lưu ,dân đi xa,dân bỏ làng quê gốc mà ra đi
Đó là người Ngũ Quảng:Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Huế), Quảng Nam, Quảng Ngãi hiệp cùng người Minh Hương,đồng hóa người Khmer ,người bổn địa Stieng...mà trộn ra dân Nam Kỳ ngày nay
Đó là dân nghèo rách nát,dân bị lưu đày,bị truy nã,bị làng ruồng bỏ,gái chửa hoang,học trò thất chí,quan bị biếm chức ,người thích phiêu lưu,giang hồ lãng tử...
"Tới Cà Mau - Rạch Giá
Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mù như sương
Thân không là lính thú
Sao chưa về cố hương?"(Sơn Nam)
Xa hơn dân Ngũ Quảng là những người ở mạn Bắc di cư theo chúa Nguyễn Hoàng vô Trung Kỳ mà Phạm Duy tả là " Gió tiễn người về đến quê hương câu ca giọng Hời."
"Mộng ngoài biên giới mơ hồ
Chẳng ngăn được sóng vỡ bờ
Với đêm mờ hồn về trên Tháp ma"
Rồi thời chúa Nguyễn,lưu dân Việt từ Ngũ Quảng theo bà Ngọc Vạn vô Mô Xoài,Đồng Nai :
"Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về"
嘉定Gia Định là nơi đô hội,trù phú nhứt Nam Kỳ,có nghĩa là định cư nơi an ổn,phước lớn
Là những lưu dân tạo ra hợp chúng quốc Nam Kỳ,ông bà chúng ta tạo ra một nền văn hóa đặc trưng riêng của Nam Kỳ mà nhìn lại có phần khác ngoài Trung,đối lập với ngoài Bắc
Thí dụ Bắc ăn bánh chưng cắt 8 miếng hình trụ nhọn,Nam Kỳ ăn bánh tét -tét ra khoanh tròn ,Bắc Kỳ uống trà kêu uống chè,Nam Kỳ kêu trà
Văn hóa Bắc là lũy tre làng bốn góc chôn chặc cái làng ở giữa ,làng nào sống kiểu làng đó,cấm giao lưu trai gái,có hương ước ngặc nghèo,có thầy Lý hắc cám,có con Thị Màu lẳng lơ,có chị Dậu bế tắc ,có những người con gái chửa hoang bị cạo đầu bôi vôi thả bè chuối trôi sông
Nam Kỳ khác Bắc phần nhiều
Nam sống mở,làng của Nam dựa vô mé sông,giao lưu với làng khác bằng ghe xuồng,bằng những con lộ,người Nam luôn mời khách xa xôi vô ở chung,giúp đỡ nhau cùng an cư vui vẻ,gái làng thích lấy trai xa xứ và thương chồng đứt ruột đứt gan vì cái quá khứ "trôi sông lạc chợ" đó
"Rồng chầu ngoài Huế ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài
Thương người quân tử lạc loài tới đây,
Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh cây sẽ về"
Gái Nam Kỳ chịu chơi,dám theo người mình yêu,dám nhận hậu quả do tình yêu đó đem lại
"Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam
Ví dầu tình có dở dang
Thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp dzìa"
Ông bà tổ tiên Nam Kỳ mình quá hãi hùng ở đất Bắc hắc ám nên vô Nam bỏ tục gần hết
Họ không muốn con cháu họ phải sống cái cảnh mõ làng rùng rợn phiên xử "hương ước" ở đình làng như ngoài Bắc
Làng xóm Nam Kỳ không có hương ước,lệ làng ,làng Nam Kỳ là làng mở,nhưng có những luật bất thành văn,mọi người phải tôn trọng,làng Nam Kỳ tuân luật triều đình,tôn trọng quan chủ quận,tri huyện
Thành ra gái Nam thất tiết thì bị gia đình xử bằng cách đuổi ra khỏi nhà ,nhưng đuổi là thủ tục thôi vì lén nhét tiền của cho nó đi trốn khuất mắt một thời gian ,hoặc đày nó xuống nhà sau cấm ló mặt lên nhà trước trong một hai năm,hoặc ra vườn sau cất nhà mà ở.Hết thời gian đó cô gái sống lại bình thường ,con cháu máu mủ mình mà
Nên ai làm phim làm cạo đầu bôi vôi,thả bè chuối trôi sông ,thả rọ heo xuống sống,quăng người xuống giếng là không hiểu gì về văn hóa Nam Kỳ.Tổ tiên Nam Kỳ chúng tôi chưa bao giờ có ý nghĩ đó trong đầu với con cháu mình
Người Nam Kỳ không lập gia phả ,vì sao?
Đừng bao giờ nói người Nam Kỳ là lưu dân dốt không biết chữ mà không lập gia phả
Các bạn nghiên cứu thấy rằng Nho giáo Bắc Kỳ là đầu môi chót lưỡi,tức thể hiện bằng cái miệng,Nho giáo Nam Kỳ thể hiện bằng cách sống
Có ai đó nói “Người Bắc cao đạo một cách ngây ngô còn người Nam thì thực tế một cách trần trụi"
Cái chữ trần trụi hơi quá,nhưng những quy tắc bất thành văn ở Nam Kỳ nó vô hình dữ lắm nha,thí dụ dân Nam Kỳ mời bạn ăn cơm,mà bạn ăn hỗn trong mâm cơm quá,họ không nói,nhưng lần sau sẽ không mời .Người Nam Kỳ luôn để khách tự giác và không nhắc
Trong làng Nam Kỳ vẫn có người biết chữ Nho,sau là chữ Quốc Ngữ,nên biết chữ Quốc Ngữ được dạy ở Nam Kỳ đầu tiên
Nhìn đền chùa,miếu mạo Nam Kỳ xưa đi,hoành phi câu đối rất nhiều,đó là bằng chứng
Không viết gia phả vì thấy không cần thiết .Một xã hội mở thì không cần gia phả
Xưa đất rộng người thưa,con cháu đi tứ tán,ở nhà toàn nhờ láng giếng gần đó,có câu "Bán họ hàng xa mua láng giềng gần"
Là dân gốc lưu dân,dân Nam muốn xóa bỏ quá khứ hãi hùng từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ
Cách xưng hô “anh Cả” ở Bắc so với “anh Hai” ở Nam là điển hình
Rất nhiều người đặt câu hỏi tại sao người Nam gọi “anh Cả”, “chị Cả” (người con trưởng, theo cách gọi miền Bắc) là “anh Hai”, “chị Hai”?
Nhiều người giải thích rằng thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng dân ở Bắc vào khai phá vùng đất Phương Nam, rằng trong đoàn quân Nam tiến lúc đó, hầu như không có ai là “anh Cả”, vì đi mở cõi thì nguy hiểm,theo tục Bắc phải để người con trưởng ở lại để phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc mộ phần tổ tiên; những người ra đi đều là con thứ
Nói vậy không trúng
Có những gia đình họ ôm cả nhà cả dòng họ của họ vô Nam kìa
Chuyện anh hai ở Nam Kỳ là chuyện đặc trưng,không thể giải thích là ông cả cọp gì đó mà sợ nên Nam Kỳ tránh "Anh Cả",vậy chứ ông Hương Cả thì sao?Nam Kỳ có Hương Cả trong ban hội tề
Đơn giản người Nam cố tình làm cho khác Bắc Kỳ khi bỏ cả,chỉ gọi người lớn là anh hai,chị hai
Bỏ chữ cả là một dạng dứt áo,cắt đứt với hương ước,lũy tre làng,với họ tộc kinh hoàng kiểu Bắc Kỳ
Ông Hương Cả trong Nam đâu có quyền hành gì,chỉ tượng trưng ,và là cả duy nhứt trong Nam ,có lẽ là một chút hoài vọng
Người Bắc thừa tự là con trưởng,nhưng thừa tự ,cúng kiếng trong Nam là con trai út ,Nam Kỳ rất thực tế,thằng út lúc nào cũng trẻ trung,nó sẽ gánh vác gia đình ở mức hăng hái,thằng hai thì già chát,nhỏ hơn cha mẹ không nhiều gánh gì nổi
Câu "Giàu út ăn nghèo út chịu"cũng của Nam Kỳ đưa ra
Thằng út giữ hương hỏa trong nhà,nhưng vẫn không hạ bệ thằng anh hai nha
Bằng chứng là trong những ngày giỗ chạp,cúng kiếng tổ tiên,đám cưới thì ông anh hai vẫn đứng ra tế lễ,thằng út đứng sau lưng anh hai
Trong họ tộc thì người thứ hai vẫn mang tiếng người đứng đầu,đám cưới thưa gửi là ông bác hai hết thảy,ông này chết thì ông bác ba lên thế
Nhưng anh hai làm lễ thôi,anh hai không có quyền xen vô chuyện cúng kiếng của thằng út như cúng lớn,cúng nhỏ,cúng ra làm sao .Nam Kỳ chia quyền hết là ở đây
Ngày nay Nam Kỳ thực tế luôn ở kiểu chia bàn thờ,anh hai giỗ cha,út giỗ mẹ,tới ngày tụ lại hai nhà vui vẻ
Không gia phả,không họ tộc ,không có khái niệm nhà thờ tổ,nhưng Nam Kỳ mặc định nhà thằng Út là nhà thờ tổ,tức là nhà nào mà cha mẹ,ông bà chết và thờ là nhà tổ
Ông nào giữ hương hỏa có nghĩa vụ làm đám giỗ,không có quyền chỉ trỏ,ra lịnh này nọ nghĩa vụ với con cháu như tộc trưởng ngoài Bắc
Con cháu trong Nam sướng là vậy,cứ về ăn đám giỗ,giàu mua đồ nhiều,nghèo mua đồ ít,không ai dám nói
Với bản chất trọng người sống,kỉnh người chết ở mức tượng trưng ,việc cúng kiếng Nam Kỳ cũng khác Bắc Kỳ
Thường giữa nhà người Nam đặt cái bàn thờ 九玄七祖 "Cửu Huyền Thất Tổ" tức "7 đời tổ tiên trên chín tầng trời "
Nhưng thực ra người miền Nam cúng giỗ chỉ 3 đời tới ông cố bà cố thôi,hết 3 hoặc 4 đời là không cúng kiếng gì nữa
Có câu五代埋神主"Ngũ đại mai thần chủ" (Đến 5 đời thì chôn thần chủ),tức đem bài vị chôn hoặc đốt,nhập lại làm một gọi là "Cửu huyền thất tổ' và giỗ chung tượng trưng
"Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ
Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha"
Cái đình Nam Kỳ rất chan hòa ,vui vẻ,là nơi dân làng tụ hợp lại cúng thành hoàng rồi ăn uống vui chơi,coi hát bội,nó như một cái sân khấu
Gánh hát về đình là niềm vui bất tận của người Nam Kỳ
Nam Kỳ không có thằng mõ tay chưn của lý trưởng ,không có cảnh phạt vạ kiểu Thị Màu
Trong cái làng Nam Kỳ có nhà việc là chổ làm việc của làng,tra án ở đó,không mang vô đình như Bắc Kỳ
Coi 'Con nhà nghèo',bà Cai Hiếu đòi đóng gông Ba Cam thì Hương Quản đáp lại "Tôi đang tra án nó,mà thủa nay làng tôi có gông đâu mà đóng"
Là gốc lưu dân,không viết gia phả,không lập họ tộc,không lập lũy tre làng,không có ông lý trưởng hét ra lửa
Để ý coi đi trong đám giỗ Nam Kỳ luôn cúng một mâm ngoài sân nhà,đó là mâm cúng lề ,cúng những người khai hoang bỏ mình hồi xưa,sau 1975 CS kêu "mâm chiến sĩ"
Tất cả các miếu,am,và bàn thông thiên Nam Kỳ đều có cúng mấy hủ muối,gạo và nước ,có nơi cúng bó củi
Đó là cúng tổ tiên gốc lưu dân của mình hồi xưa
Người Nam Kỳ cúng lề,cúng đất, cúng cô hồn
Cúng tổ tiên Nam Kỳ chung là ngày 25 tháng Chạp,khi con cháu tụ về dẫy mả,tảo mộ,họ sẽ làm mâm cơm cúng ở nhà ,thường là nấu cháo gà cháo vịt
Tục thờ ông bà ở Nam Kỳ rất đơn giản,chỉ ba bốn đời,nhưng không được bỏ bàn thờ tổ tiên
Đồ Chiểu chửi rằng "Sống làm chi theo quân tả đạo-Quăng vùa hương đạp bàn độc thấy lại thêm buồn"
Xưa Nam Kỳ có cái bàn thờ và giường thờ
Người Pháp qua, đem qua Nam Kỳ cái tủ chén đứng kiểu thời Louis XVI, không cao không thấp, trước tiên là ở xứ Thủ Dầu Một, sau thợ Gò Công sáng tạo đóng cái tủ thờ dựa trên nguyên lý ráp mộng đi khung của tủ kiểu Pháp, nhưng cải tiến theo phong tục Nam.
Từ đó cái tủ thờ này là đặc trưng Nam Kỳ Lục Tỉnh,hiệp cùng tranh kiếng nữa,ra cái hồn tổ tiên Nam kỳ mình
Trong "Gia Định thành thông chí" của Trịnh Hoài Đức có đoạn:
"Vùng Gia Định .... đất đai rộng, lương thực nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ. nhà nào tục nấy…..Gia Định có vị trí nam phương dương minh, nên người khí tiết trung dũng, trong nghĩa khinh tài…."
Đó là tánh hiếu khách, hào phóng,không câu nệ hình thức,sống thực dụng
Dân Nam Kỳ hay đờn ca xướng hát ,làm ra đờn ca tài tử và cải lương vang danh ,hệ thống bài lý nhiều nhứt Việt Nam
Người Nam Kỳ trọng tôn giáo,nhưng kiểu của họ
Đạo Phật vô Nam biến thể,phải trộn với tín ngưỡng dân gian.Dân Nam Kỳ không phải là những tín đồ Phật giáo thuần thành
Các phái Phật trong Nam đều là biến thể ,chùa trong Nam không lớn
Công giáo trong Nam Kỳ xưa khác ngoài Bắc,Nam không có các giáo xứ,người Công giáo Nam Kỳ hòa nhập,thế tục .Người Công giáo Nam Kỳ luôn ít hơn Công giáo Bắc Kỳ
Sông rạch và đồng bằng tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn trong chánh trị ,nhưng tràn trề tình thương,biết nhìn người khác,biết cúi mình xuống tha thiết với Quốc Gia
Dân Nam Kỳ không những nói ngay mà hay nói lớn tiếng, thiếu trau chuốt,đôi lúc bổ bả
Không lập gia phả,nhưng con cháu sống làm sao phải ra dáng con người,sống không làm tủi nhục tổ tiên,sống thẳng,sống có ích,sống không để tiếng nhơ cho tổ tiên,dòng họ
Người Nam Kỳ dạy con cháu cũng theo kiểu mở
Biên cái tục này là để răn mình
Biết cái hay cái tệ của mình để nhìn lại bản thân mình
Và tính cho ra cách thức tồn tại của xứ sở mình trước thời cuộc.
(St)

Chủ Nhật, 21 tháng 7, 2019

THIÊN NIÊN TUYẾT SƠN TRÀ

Các bạn lưu ý trà trắng (Weisse Tee) là một loại trà uống, nhưng được giới Thảo Dược Học Phương Tây đánh giá như một thứ thảo dược quí hiếm trong trong trị liệu Hệ Thần Kinh, Hệ Tuần Hoàn và Hệ Tiêu Hóa.
Ngoài trà trắng bình thường của vùng Thiểm Tây, Tân Cương… của Trung Quốc, với tên gọi chung là Bạch Mao Trà ra, thì có hai loại trà trắng khác được giới sành Trà kim cổ đánh giá là 2 loại trà trắng tuyệt đỉnh. Đó là Thiên Niên Tuyết Sơn Trà của Tây Tạng và Thiên Sơn Bạch Mao Trà của Hà Giang, Việt Nam. Trà này còn có tên gọi khác là Thạch Sơn Bạch Mao Trà.
Thiên Niên Tuyết Sơn Trà của Tây Tạng là loại trà huyền thoại, tục truyền là loại trà thu lượm từ chồi non ngậm tuyết của giống trà ngàn năm tuổi trên đỉnh Tuyết Sơn (Hymalaya). Theo cổ thư của Đạo Gia cũng như Mật Tông, thì Thiên Niên Tuyết Sơn Trà rất hiếm, lúc có, chỉ dùng để luyện Ngoại Đan, chứ ít ai có căn cơ thưởng ngoạn bằng cách pha uống. Sau này Thiên Niên Tuyết Sơn Trà được các bậc Đạo Sư dùng hãm với Đông Trùng Hạ Thảo mắt đỏ để trợ giúp trong việc luyện Khí….(He he he..quí hiếm cỡ nào thì lão phu cũng có người biếu tặng mà- Xem ảnh)
Thạch Sơn Bạch Mao Trà của Hà Giang, là loại trà thu lượm từ búp non 1 lá của giống trà cổ, thường chỉ sinh trưởng trong các hốc núi đá ở vùng núi Hoàng Liên Sơn. Cây trà nhiều tuổi, sống trong hốc núi cao, nó không cao lớn như giống trà cổ khác đang bị bốc lột, mà mọi người lầm tưởng. Nó cằn cỗi, gốc xù xì như cây cảnh. Quanh năm, suốt tháng chìm trong sương mù giá buốt. Thu lượm loại trà này rất khó khăn và chỉ đạt chuẩn khi được hái lượm vào mùa sương muối giá lạnh mà thôi.
Loại trà trắng Hà Giang mà nổi tiếng nhất là trà Tà Xùa, cũng là thu lượm từ chồi 1 lá hoặc 2 lá từ giống trà cổ trên vùng núi cao, sương giăng bốn mùa. Nhưng không phải là loại trà Thiên Sơn Bạch Mao Trà như đã đề cập trên.
Tuy nhiên nếu là loại trà trắng Tà Xùa, được hái lượm từ búp trà do ngậm sương giá mà có lông tơ màu trắng bao phủ quanh mầm lá rồi đem sao sấy đặc biệt để vẫn đảm bảo màu trắng nguyên sơ thì loại trà này vẫn là loại trà thượng hảo hạng. Tất nhiên các loại trà làm màu khi chế biến mới có thì chất lượng không thể đo bàn được.
Trà trắng Tà Xùa chất lượng tốt, dân gian hay gọi là trà đinh. Trà này lúc pha xong, bả trà thẳng tưng, nở ra còn nguyên lá. Tuy không còn màu trắng nữa, nhưng vẫn có màu xanh bạc, và bìa lá vẫn còn có lông tơ nhỏ.
Trà trắng có tác dụng như vị thuốc, hàm chứa lập trình Âm Dương rất mạnh. Vì vậy không nên pha nhiều như kiểu pha trà mạn bình thường. Mỗi lần pha nên chỉ dùng 5-7 cánh / một ấm là vừa. Pha nhiều như trà mạn, vị sẽ chát, vừa phí trà vừa phản tác dụng. Nếu là người nghiện trà, thì nên pha chung với trà mạn để cho được vị. (Đó là lý do là vì sao khi chúng đệ tử pha trà đinh này như pha trà mạn, lão phu chỉ nhấp môi mà không uống như mọi lần khác, nên bị chúng cười nhạo là „đô trà“ của Sư Phụ dạo này xuống cấp heheheheh…)

Chủ Nhật, 10 tháng 2, 2019

Cách tính ngày Tốt Xấu trên bàn tay dựa vào Lục Diệu

1. Ý nghĩa Lục Diệu là gì?

Lục diệu hay còn gọi là Lục nhâm, trong đó “Lục” nghĩa là sáu, “diệu” nghĩa là tinh diệu, là các sao. Ở đây các sao này chính là những trạng thái trong quá tình phát tiển. Nguyên nghĩa của cụm từ “Lục nhâm” nghĩa là sáu sao, chính là các đại lượng trong quá trình diễn biến của sự việc, giống như xét về chuyển động vật lý có các đại lượng, vận tốc, quãng đường, thời gian, gia tốc, trọng lượng, lực cản không khí, ma sát… Nguyên cuốn sách khổng minh lục diệu và phương pháp này nằm trong hệ thống binh pháp của Gia Cát Lượng có tên là “ngồi trên mình ngựa tính toán xem có kẻ thù nào truy đuổi”. Phương pháp tính này khác Tử vi đẩu số, kỳ môn độn, Bát tự, Mai hoa dịch số, Thái ất ở chỗ các môn này cần thời gian và tĩnh tâm, còn Lục diệu sử dụng trong hành quân, tác chiến nên cho ra đáp án, kết quả rất nhanh.

2. Cách tính ngày Tốt Xấu trên bàn tay dựa vào Lục Diệu

Một trong những ứng dụng của Lục diệu chính là dùng để chọn ngày tốt một cách nhanh chóng, trong điều kiện không có tài liệu, sách vở, hay smartphone, laptop hỗ trợ. Cách tính ngày Lục Diệu như sau
LƯU NIÊN
TIỂU CÁT
Sử dụng hai ngón tay, mỗi ngón có ba đốt ngón tay và như vậy tổng cộng có 6 đốt ngón tay

Ngày mùng 1 tháng Giêng khởi từ cung Đại an, sau đó thuận theo chiều kim đồng hồ ngày mùng 2 đến Lưu niên, ngày 3 đến Tốc hỷ, hết sáu trạng thái giai đoạn lại trở về Đại an, tính cho tới hết tháng

Tương tự như vậy tháng 2 khởi từ cung Lưu niên và ngày mùng 1/02 ở cung đó rồi tịnh tiến theo chiều kim đồng hồ cho tới hết tháng

"Ví dụ: Ngày 23.07. Tháng 7 ở cung Đại an, tính từ 1 tới 23 thì ngày 23 sẽ rơi vào cung Tiểu cát, và ngày đó là ngày Tiểu cát"

Cách tính giờ tốt theo cũng vậy. đến ngày nào thì lấy chính ngày đó là giờ Tý, thính thuận chiều kim đồng hồ tới giờ cần xem.

"Ví dụ: 10h sáng ngày 25. 08. Tháng 8 ở cung Lưu niên, ngày 25 rơi vào vị trí Lưu niên nên gọi là ngày Lưu niên, 10h là giờ Tị, cung Lưu niên là giờ Tý, tính thuận kim đồng hồ đến giờ Tị thì nó sẽ rơi vào cung Đại an, và 10h sáng hôm đó là giờ Đại an."

Theo phương pháp tính này sẽ có 3 trạng thái tốt và 3 trạng thái không tốt:

  • Trạng thái Tốt theo Khổng Minh Lục Diệu:

+ Đại an: Nghĩa là sự yên ổn, bền vững, kéo dài. Làm nhà mà gặp các ngày, giờ này thì gia chủ và các thành viên luôn mạnh khỏe, cuộc sống ổn định dài lâu tạo tiền đề cho sự phát triển bền vững. Đại an là một ngày, hoặc giờ tốt, nên làm việc gì cũng gặp thuận lợi, may mắn, nên người ta rất muốn lựa chọn thời điểm này để tiến hành bắt đầu các công việc.

+ Tốc hỷTốc có nghĩa là nhanh chóng, hỷ nghĩa là niềm vui, cát lợi hanh thông. Gặp thời điểm này người ta dễ gặp may mắn bất ngờ sau đó, bởi thế nên trạng thái này vô cùng cát lợi trong thời điểm đầu. Nếu là ngày đặc biệt cát lợi vào buổi sáng. Nếu là giờ may mắn rất nhiều vào giờ sơ (tức là tiếng đầu tiên của canh giờ), còn tới giờ chính thì yếu tố may mắn, cát lợi sẽ bị chiết giảm đi nhiều.

Tiểu cát: Tiểu nghĩa là nhỏ, cát nghĩa là cát lợi. Trạng thái này chỉ những may mắn hanh thông vừa và nhỏ. Thế nhưng trong hệ thống nó là một giai đoạn tốt. Trong thực tế nếu gặp thời điểm này thường có quý nhân phù tá, âm phúc che chở, độ trì.

- Trạng thái Xấu theo Khổng Minh Lục Diệu:

Lưu niên: Trạng thái không tốt, mọi công việc tiến hành đều bị cản trở, dây dưa, rất khó hoàn thành. Vì bị cản trở, kìm hãm nên việc gì cũng dẫn đến tình trạng hao tốn tiền của, hao tốn thời gian và công sức. Những việc nhỏ như nộp đơn từ, hành chính, khiếu kiện, ký kết hợp đồng mà gặp ngày (hoặc giờ) này cũng rất khó giải quyết, đi đến thống nhất và kết thúc hoàn thành

Xích khẩu: Là một giai đoạn xấu. Xích nghĩa hán văn là đỏ, khẩu nghĩa là miệng. Miệng đỏ theo nghĩa gốc là khi há ra, theo nghĩa sâu xa nghĩa là những lời tranh biện, bàn bạc, trao đổi, đàm thoại không bao giờ ngừng lại. Tiến hành công việc vào thời điểm này rất khó đi thới thống nhất, có nhiều ý kiến trái chiều, tranh luận mãi không thôi, có thể dẫn tới thị phi, cãi vã, lời qua tiếng lại, ồn ào. Không chỉ có vậy, nội bộ mâu thuẫn đã đành, người ngoài nhân đó cũng chê bai, dè bỉu, bàn ra tán vào, thêm dấm, thêm ớt, mang tiếng xấu, gièm pha không ngớt, nhiều khi dẫn đến tình trạng bị nói xấu sau lưng, làm ơn nên oán. Những việc như đàm phán, ngoại giao rất kỵ ngày (hoặc giờ này)
Không vong: Không nghĩa là trống rỗng, hư vô. Vong nghĩa là mất, là không tồn tại. Không vong là trạng thái cuối cùng trong chu trình biến hóa của cả một quá trình, tượng của nó như mùa đông, vạn vật tiêu điều, lạnh lẽo, hoang phế. Như vậy, tiến hành công việc vào thời điểm này sẽ dẫn đến thất bại. 

Sau khi Gia Cát Lượng qua đời, tài liệu của ông bị thất lạc, mất mát gần hết, có một số công trình mà hậu thế không tài nào giải mã được. Đến thời nhà Đường, ông Lý Thuần Phong kế thừa và phát huy phương pháp Lục diệu lên một tầm cao mới. Ngày nay, người ta ứng dụng phương pháp này để tính ngày tốt xấu bằng bàn tay hay chọn ngày tốt xấu, chọn giờ xuất hành, động thổ, khởi công để mong muốn hướng tới những điều may mắn, cát lợi.