Chủ Nhật, 19 tháng 8, 2018

MẸO VẶT....GIẢI KHÁT

Dân gian thường lẫn lộn giữa 2 khái niệm liên quan khá mật thiết đến đời sống hàng ngày và sức khoẻ, đó là khái niệm Giải Khát và Giải Nhiệt.
Giải Khát là đáp ứng đủ cho nhu cầu thiếu nước của cơ thể. Nó mang tính chất cần thiết, cấp tốc, thường xuyên và bắt buộc cho một cơ thể bình thường, kể cả khi không có bệnh tật
Còn Giải Nhiệt, thì mang tính chuyên môn hơn về sức khỏe. Đặc biệt trong Đông Y thì Giải Nhiệt là một thủ pháp Y Thuật cực kỳ quan trọng và được ứng dụng rất thường xuyên.
Giải Nhiệt nhiều lúc không cần thiết đến vấn đề Giải Khát, nhưng nếu như giải khát mà không biết cách giải nhiệt thì càng uống càng khát thêm...và không giải quyết được triết để vấn đề thiếu nước của cơ thể.
Có một cách “giải khát và giải nhiệt” cực kỳ phản tác dụng mà dân gian thường nhầm lẫn và tự lừa dối cơ thể của chính mình. Đặc biệt là dân Đông Nam Á mà Việt Nam là một điển hình rõ nét nhất. Đó là sử dụng NƯỚC ĐÁ và KEM để giải nhiệt khi mùa hè nóng nực và khắc nghiệt.
Chính cách “giải nhiệt/giải khát” phản tác dụng này cuối cùng trở thành một thói quen vô cùng tai hại cho sức khoẻ. Và gần như mạc định để trở thành một nét “địa văn hóa” khá kỳ cục trong nếp sống của cộng đồng cư dân Đông Nam Á nói chung và Việt Nam nói riêng.
Và trong cái thói quen của nét Địa Văn Hóa kỳ cục này, thì có 3 loại được sử dụng một cách thường xuyên như một nhu cầu tất yếu của đời sống, nhất là đời sống đô thị. Và 3 loại được sử dụng thường xuyên này cũng chính là 3 loại “giải khát/ giải nhiệt” tào lao nhất, nguy hại nhất đối với vấn đề Sức Khoẻ. Đó chính là CÀ PHÊ ĐÁ, TRÀ ĐÁ và BIA HƠI uống với NƯỚC ĐÁ.
( Có câu chuyện có thật mà chính tôi là người trong cuộc. Một bệnh nam ở Sài Gòn có lần gặp tôi xin tư vấn về cách chữa trị bệnh suy thận. Anh ta bảo, anh ta có cuộc sống rất lành mạnh, không bia rượu, không thuốc lá, ăn uống cũng chọn lựa rất kỹ càng, và có đời sống tình dục rất chừng mực, tại sao lại bị yếu thận và đang có nguy cơ suy thận và bị táo bón thường xuyên.
Tôi hỏi, vậy thì có phải thức uống giải khát hàng ngày của anh là cà phê đá và trà đ́á không. Anh ta bảo, đúng, và uống khá nhiều 2 loại này mỗi ngày và đó cũng là thức uống chính của anh ta. Tôi khuyến cáo anh ta. Bây giờ, hãy ngưng uống ngay cà phê đá và trà đá. Anh có thể uống cà phê nóng, trà xanh nóng, và có thể uống bia, uống rượu, nhưng không được uống với đá, anh vẫn được hút thuốc và ăn uống vô tư, nhưng hạn chế tối đa thức ăn, thức uống ướp lạnh. Anh cứ thực hiện cho đúng liệu trình này trong vòng 3 tháng. Nếu tình trạng bệnh lý không có gì thay đổi hãy đến tìm tôi.
Sau 6 tháng gặp lại. Anh ta chắp tay gọi tôi là “thần y”. Vì bệnh lý mà đã làm cho anh ta lo lắng đã được hóa giải hoàn toàn. Anh ta hỏi vì sao chỉ ngưng uống cà phê đá và trà đá lại giải quyết được vụ suy thận và táo bón. Vì anh ta là một nhà Sinh Vật Học trong lĩnh vực công nghệ Gene. Nên tôi không giải thích gì. Vì có giải thích thì với cách tư duy của khoa học thực nghiệm, anh ta cũng chả hiểu gì, và có hiểu cũng không tin. Vì vậy tôi chỉ cười cười và nói đùa: “Nói tóm lại là không chỉ có lĩnh vực thận và đường ruột, mà đối với vấn đề sức khoẻ, thì nếu có quyền, tôi sẽ đề nghị đem tất tần tật những nhà sản xuất cà phê, những chủ nhà máy sản xuất nước đá, và chủ các tiệm kem... ra tòa án Quốc Tế và đề nghị “treo cổ” hết vì tội ác hủy diệt cuộc sống của loài Người” ...hehehehehhe....)
Tuy đó là câu nói đùa, nhưng nó cũng hàm chứa đúng thông điệp tai hại của những những thứ đó đối với đời sống của Nhân Loại.
Không phải vô cớ mà đối với việc khám bệnh theo Tứ Chẩn của Đông Y, và việc thăm khám của Tây Y đối với những bệnh Nan Y và bệnh thời đại như Tiểu Đường, Áp Suất Máu, Khủng Hoảng Tinh Thần....việc đầu tiên của người Bác Sĩ là thăm hỏi cuộc sống của người bệnh có thường xuyên tiếp xúc với các nguyên nhân gây nên triệu chứng của các bệnh lý trên hay không. Câu hỏi thường theo thứ tự mức độ phơi nhiễm bệnh từ thấp lên cao như sau:
– Có thường xuyên uống và nghiện bia, rượu, và các chất có cồn hay không?
– Có hút thuốc lá hay không?
– Có uống cà phê không?
– Có thường xuyên sử dụng thuốc giảm đau và thuốc kháng sinh không?
– Có nghiện ma túy không?
Mức độ nguy hại của Cà Phê đối với sức khoẻ nói chung và bệnh về tim mạch và tiêu hóa nói riêng nó chỉ đứng sau thuốc giảm đau và thuốc kháng sinh, nhưng lại đứng trên mức độ nguy hại của bia rượu và thuốc lá.. Đó là nói về cà phê. (Tôi sẽ có một bài viết riêng về tác hại của cà phê với sức khỏe và đời sống Nhân Sinh, với đầy đủ các luận chứng khoa học và thống kê thực nghiệm Y Học. Để minh chứng cho “luận thuyết” những doanh nghiệp sản xuất và cung cấp cà phê là tội đồ sức khỏe của cộng đồng xã hội.) Trong khuôn khổ bài viết về mẹo vặt về giải khát này, tôi chỉ điểm sơ qua về Nước Đá.
Chưa cần bàn đến các chất kích thích, các độc tố có̃ hại trong cà phê, trà và bia hơi. Chỉ cần bàn đến Mùi Vị của nó, và tương tác của nó khi bị ướp lạnh lên hai hệ thống nội tạng là Hệ Tiêu Hóa và Hệ Bài Tiết.
Cả 3 thứ, Cà Phê, Trà, Bia Hơi có một đặc điểm đặc thù nổi trội nhất là đều có vị đắng. Vị đắng ứng với Ngũ Hành là hành Hỏa, kích hoạt và đi vào Tim và Tiểu Trường/ Tam Tiêu- Tâm bào.
Liên quan đến vấn để Giải Khát, tức là liên quan đến vấn đề Nước ở trong cơ thể. Các cơ quan nội tạng có liên quan trực tiếp nhiều nhất đến sự vận hành của Nước và Thuỷ Khí ở trong cơ thể bao gồm. Thận- Bàng Quang (Bộng đái). Phế- Đại Trường (Phổi/ Ruột Già) và Da.
Đầu tiên là vị Đắng của 3 thứ nói trên thuộc về và tương tác lên hành Hỏa trong cơ thể. Thận- Bàng Quang thuộc hành về Thuỷ. Phế- Đại Trường thuộc hành Kim. Theo luật tương sinh và tương khắc của Ngũ Hành, thì hành Thuỷ khắc hành Hỏa. Hành Hỏa lại khắc Hành Kim.
Như vậy chiếu theo Ngũ Hành, thì vị Đắng là khắc tinh của cả hành Thuỷ và hành Kim. Tức là tương ứng với Thận- Bàng Quang và Phế- Đại Trường.
Mặt khác, Thận thuộc về Âm, nhưng lại ưa Ấm và cực kỵ với Hàn/ Lạnh. Phế ưa Mát nhưng lại vô cùng sợ Phong/ Gió.
3 cái thứ đã có mùi vị khắc tinh với các cơ quan nội tạng liên quan đến Bài Tiết/ Nước lại bị ướp thêm đồ cực lạnh/nước đá. Vậy là lại chồng thêm thứ đại kỵ với Thận- Bàng Quang và Phế- Đại Trường. Chiếu theo nguyên tắc này, thì rõ ràng uống Cà Phê Đá, uống Trà Đá, và Bia Hơi Ướp Đá hoàn toàn không phải là cách Giải Khát đúng nghĩa. Nó chỉ tức thời đánh lừa cảm giác, tạo nên thói quen. Và thói quen này vô hình chung đã làm tổn thương Thận- Bàng Quang và Phế- Đại Trường. Sự tổn thương bị kéo dài liên tục theo thói quen nghiện ngập thì Thận và Ruột Già, Da, Phổi có cấu tạo bằng gang thép cũng phải hỏng chứ đừng nói chi chỉ là cơ bắp, da thịt...bình thường.
Các bạn thử suy ngẫm lại xem, không dưng mà người xưa, và những người dân xứ nắng lửa, gió lào miền Trung họ chỉ giải khát buổi trưa nắng nóng đổ lửa bằng những đọi nước chè xanh vừa thổi phì phò vừa nhấp từng ngụm. Bạn nghĩ họ điên chắc.....
Nói tóm lại nếu đã cần giải khát/ giải nhiệt thì không nên uống Cà Phê Đá, Trà Đá và Bia Hơi Đá.
Nếu các bạn là những nhà Khoa Học, thực nghiệm, những con người của thời hiện đại. Nên cho rằng những lý giải của Đông Y là tầm phào, thì các bạn hãy bằng lý luận của Cơ Thể Học Hiện Đại, các bạn cũng có thể nhận biết ra sự giải khát giả tạo của của các loại thức uống có đá trên
Cơ chế giải khát khi trời nóng hoặc bị nóng sốt là bổ sung nước và lượng muối đã bị bài tiết qua đường Thận, Ruột Già, Phổi và tiết mồ hôi qua da. Sự làm lạnh cóng đột ngột phía trong. Làm cho nhu động ruột bị co lại. Và các cơ chế hoạt động của các loại niêm mạc ruột, niêm mạc phế nang và thận nang bị đình trệ, co kết lại. Không nó cơ chế nung nóng để nước bay hơi thoát đi, thì cơ chế làm mát của cơ thể không thể phát huy được.
Mặt khác, vị đắng và cái lạnh cóng đột ngột làm tổn hại và ngưng trệ sự hoạt động của các men tiêu hóa, giải phóng năng lượng trong vùng niêm mạc ruột. Hiện tượng này sẽ tạo nên sự ứ trệ và bế tắc và uất nhiệt ở đường ruột và dạ dày. Các bạn nên biết các men tiêu hóa và vi khuẩn có lợi trong đường ruột hoạt dộng ở nhiệt độ ít nhất là ngang với cơ chế thân nhiệt và có khi cần cao hơn thân nhiệt một vài độ C.
̣Vì cần có liệu pháp hoạt nhiệt để giải phóng năng lượng, giúp cho sự bay hơi và bài tiết nước để làm mát cơ thể. Cho nên người dân xứ càng nóng, theo nhu cầu tự nhiên họ ăn càng cay và càng thích ăn thức ăn nóng là vậy.
Vì vậy thức uống giải khát tốt nhất vẫn là các thứ cay, nóng, ngọt, chua và giàu muối. Chứ không phải là các thức uống có vị đắng và lạnh.
Tuy nhiên vì thói quen, vì sự nghiện ngập và vì cả cảm giác mát lạnh khi bị lừa thứ “giả hàn”, “giả ôn”. Cuộc sống của người Đông Nam Á vào mùa hè không thể thiếu nước đá và kem.
Mà trong các thứ đồ ăn, thức uống thì cái thứ, nguội lạnh là Nước Đá và Kem là hai cái thứ bẩn nhất, tàng ẩn nhiều nguy hiểm nhất. Nếu bạn đã từng tham quan một nhà máy hay một xưởng làm nước đá thẻ, thì bạn sẽ biết ngay cái mức độ mất vệ sinh của nó như thế nào.
Nhưng đã lỡ là cơ dân của cái môi trường Địa Văn Hóa nó như thế rồi. Nếu mình đi ngược lại truyền thống “Văn Hóa” Cà phê đá, Trà đá, Bia hơi đá là mình trở thành “thằng mất dạy”, “kẻ mất đạo đức” ngay...he..he..he.....
Vẫn có cách để không bị cái hại của Nước Đá/Kem hình hại, mà vẫn không bị làm thằng mất dạy đấy. Có cách để có thể tận hưởng cái cảm giác bị lừa mát lạnh, mà lại không bị ảnh hưởng mấy cho sức khoẻ. Đó là cú Mẹo Vặt mà tôi muốn chia sẽ với các bạn dưới đây.
1- Thay vì dùng nước đá viên, nước đá bào...đổ vào ly sinh tố, ly nước giải khác, vừa bẩn, vừa độc, vừa làm loãng đi mùi vị và chất lượng của ly nước uống. Bạn hãy lấy các loại trái cây, các loại củ quả có chứa nhiều nước như quả nho, trái dâu tây,, trái mận....hoặc là bạn cắt các loại dưa, bí đao, củ cải trắng... ra từng miếng nhỏ như viên nước đá...... rồi bỏ tất cả vào ngăn đông đá của tủ lạnh hoặc tủ đông
2- Tuỳ loại sinh tố, hoặc loại nước uống, tuỳ vào mùi vị mà bạn thích. Khi đã có ly nước rót sẵn. Bạn hãy chọn thứ hoa, củ, quả...đã đông đá, bỏ vào ly như bỏ những viên nước đá vậy. Củ, quả đông đá, không bị tan chày, nhưng độ lạnh của nó cũng đủ để làm mát lạnh ly nước nước của bạn đang dùng. Mùi vị, của ly nước không bị nước đá làm hòa loãng, và trong còn đẹp mắt và hấp dẫn hơn.
3- Các loại, chanh, cam....các bạn có thể thái ra từng lát dày vừa phải, cũng bỏ đông đá như vậy, dùng để uống nước cam , nước chanh rất tiện lợi.
(Xem hình ảnh đính kèṃ)
3- Riêng các bạn và quí vị nghiện cà phê đá. thì nên chuyển sở thích sang uống cà phê nóng. Nếu các bạn vẫn không từ bỏ được thói quen cà phê đá, thì hãy làm như sau. Bạn hãy lấy những viên đá thạch anh nhỏ, bỏ vào tủ đông như bỏ hoa quả vậy. Và khi uống bạn cho một vào viên đá thạch anh đông lạnh vào ly, cốc, hình dáng, màu trong và độ lạnh của nó cũng không khác gì là nước đá đâu. Kể cả tiếng khua long cong vào thành ly và thìa khuấy cũng y chang bạn đang dùng nước đá luôn....he..he..he....thật đấy.
4- Riêng các bạn nghiện trà đá. Thì nhân danh một thầy thuốc, tôi khuyên các bạn hãy nhanh chống từ bỏ thói quen này. Chè xanh và Trà mạn không phù hợp với uống lạnh. Uống với nước đá, trà, chè xanh sẽ trở thành một thứ độc hại cho Thận và Đường Ruột. Trà uống với đá, các chất độc hại từ thuốc bảo vệ thực vật và thuốc tăng trưởng, cũng như chất ta nanh ở trong trà rất dể kết tủa và lắng động lại ở Thận. Uống lâu ngày sẽ hại và làm suy thận.
Một ví dụ, chỉ cần pha trà mạn với nước hơi bị nguội, hoặc uống nước trà nguội qua đêm. Bạn sẽ có nhu cầu đi tiểu ngay lập tức và thường là bị đái dắt....
Hì hì.....Cái vụ Mẹo Vặt này khá quan trọng với một số người bệnh và một số người thân của tôi đang trực tiếp theo dõi. Vì vậy phải đánh máy dài dòng, và mất thời gian dễ sợ....khẹc..khẹc.....

theo Lê Thuận Nghĩa

Thứ Năm, 9 tháng 8, 2018

BÙA NGẢI – CÁCH GIẢI TRỪ BÙA NGẢI VÀ PHÒNG CHỐNG (I)


Phần I. BÙA CHÚ

Thi thoảng ta vẫn bắt gặp đâu đó những câu chuyện ly kỳ, đậm chất liêu trai: có anh cán bộ lên miền núi công tác, bị dính bùa nên đã bỏ vợ bỏ con, ở lại cùng cô sơn nữ... Có những người trong giới Showbizz vì ghen ghét, đố kỵ nhau, người ta có thể dùng bùa chú để hại nhau... Hay có những người, gia đình đã mất mạng vì bùa ngải..vv... Thế giới bùa ngải đã tạo nên một màu sắc huyền bí, tạo nên sự tò mò, mê hoặc cho rất nhiều người. 

(Bùa chú)
Chung quy lại cũng chỉ là biểu hiện của những sự bế tắc trong đời sống, sự cực đoan về tâm trí, hay sự eo hẹp về tâm hồn mà thôi. Người ta có thể vì lợi ích của bản thân mình mà sẵn sàng hại một ai đó, hay chỉ để thỏa mãn chút bản chất ích kỷ, đố kỵ trong con người mình, sẵn sàng xem nhẹ cuộc sống hay thân mạng của người khác. Những câu chuyện về lòng bi mẫn luôn ám ảnh người nghe.

Một mặt khác của bùa chú, dựa vào tính mê hoặc của nó, dựa vào khát khao muốn có được những điều tốt lành của tâm lý số đông, cũng xuất hiện những kẻ biết lợi dụng để để kiếm tiền trên sự không hiểu biết của người khác. Phần lớn những bùa chú được bán trên thị trường, được xin cho ở cửa chùa, cửa Phật đều thuộc dạng này, chẳng có chút giá trị hay ảnh hưởng gì.

Ngày nay, một số người trong chúng ta cũng tìm đến bùa chú như một giải pháp về tinh thần. Khi cuộc sống cứ mãi không may mắn, chúng ta cũng muốn xin được một lá bùa để cầu may. Khi gia đình có nhiều xáo trộn mà chúng ta không tìm ra cách giải quyết, do không hiểu nguyên nhân từ đâu nên ta cứ nghĩ hay là có nguyên nhân bí ẩn nào đó, và thế là ta cũng tìm một lá bùa để mong có sự an ổn trong nhà. Rồi bùa phòng thân, bùa chữa bệnh, bùa tình duyên, bùa hộ mạng, bùa hóa giải vận hạn, tai ương..vv...

Mỗi khi đã lạc vào mê trận của bùa chú, chúng ta cũng sẽ khó tìm được lối thoát cho thỏa đáng. Giống như một người bị bệnh nan y, cứ nghĩ bệnh của mình đã vô phương cứu chữa, thế là vội vã bỏ qua sự thông minh, sự tỉnh táo của bản thân mình, dùng những thứ thuốc đáng nhẽ ra không nên dùng, tin vào những điều đáng nhẽ chẳng nên tin mới phải. Để rồi khi thấy không có gì biến chuyển, bệnh vẫn càng ngày càng nặng hơn thi lại càng thiêm bi quan, mờ mịt.

Nhưng với những bùa chú có tác dụng thật thì sao? Khi sử dụng bùa chú, với nhiều mục đích khác nhau, đôi khi chúng ta đã vô tình quên đi, và bỏ qua những ẩn họa có thể ẩn tàng trong đó.
Những ai am hiểu bùa chú thì đều biết đây là con dao hai lưỡi, không dễ chơi chút nào. Người không hiểu thì đôi khi còn cảm thấy mừng vì đã xin được bùa.

(Một kiểu bùa khác)

Chúng ta nên hiểu rõ bản chất thực của bùa chú.
Bùa: là đồ hình (hình vẽ) do người làm bùa tạo ra.
Chú: (Thần chú) là những lời mà người làm bùa đọc lên trong lúc vẽ bùa.

Tùy vào từng loại bùa, ý nghĩa và tác dụng của nó, mà có những hình vẽ và lời chú khác nhau, nhưng quy tắc khi làm một lá bùa là vừa đọc chú vừa vẽ, miệng thì đọc chú đồng thời tay vẽ, tập trung tư tưởng, lúc vẽ xong lá bùa thì cũng là lúc đọc hết câu thần chú. Một hình vẽ phức tạp thường phải dùng nhiều biến chú (đọc chú lặp đi lặp lại nhiều lần).

Vì sao vậy?
Vì sao mà bùa chú có lại có một tác dụng nào đó? Xin thưa vì nó có tha lực.
Tha lực là gì? là lực tác động được tạo ra không phải do con người mà do một thế lực khác, thuộc về thế giới tâm linh huyền bí.

Hình vẽ bùa bao giờ cũng có những đường cong uốn lượn, hoặc những hình xoáy trôn ốc. Bởi trong không gian không phải 3 chiều của thế giới tâm linh thì đây chính là những điểm khó thoát, những cái bẫy. Hay nói cách khác là chỗ để cầm giữ.

Câu chú thuộc một quyền năng lớn hơn. Nếu không có chú tác động thì bùa trở nên vô giá trị.
Chúng ta hiểu đại ý giống như việc một người lớn, quyết định hôm nay không cho trẻ ra khỏi nhà, áp đặt cho trẻ, yêu cầu trẻ ở nhà phải làm việc gì đó đồng thời khóa luôn cửa, thế là đứa trẻ đành chấp nhận ở bên trong ngôi nhà đó, và làm những việc mà người lớn đã yêu cầu.

Lời nói của người lớn ví như câu thần chú, ngôi nhà là lá bùa, và đứa trẻ là một vong linh. Khi một câu chú được đọc lên đồng thời với nét vẽ thì đã có một tha lực bị nhốt vào trong đó, và tha lực này có tác dụng tùy theo yêu cầu của lời chú.

Điều đáng quan ngại là làm bùa thì dễ, nhưng giải bùa lại rất khó, những ông thầy làm ra bùa, 10 người thì có đến 9 người không biết cách giải những lá bùa mà họ đã làm ra.
Bởi những câu thần chú cổ xưa truyền lại phần lớn đều bằng tiếng phạn, hay một thứ cổ ngữ nào đó, chỉ có thể hiểu ý chứ không thể dịch nghĩa cụ thể. Nên những thầy bùa phần lớn không thể học hỏi được một cách thấu đáo. Và phần lớn các ông thầy lúc học cũng chỉ học cách làm bùa chứ không học cách giải bùa, nên những câu chú giải bùa cho từng loại bùa không phải ai cũng biết.
Quy tắc giải bùa là đọc chú có tác dụng buông thả sự cầm giữ các tha lực, và thứ tự nét vẽ thì vẽ ngược lại so với lúc làm bùa.

(Đủ các loại Bùa được in sẵn và bán khắp nơi)
`Ví dụ về bùa: Ví dụ chúng ta hay bị vong theo, vong nhập… hay đơn giản chỉ để tránh tà ma, ta liền đi xin một lá bùa để tránh hiện tượng này. Lá bùa mà ta xin được sẽ có nhốt một tha lực nào đó ở trong, thường là vong (âm), và nó có tác dụng chống vong khác lại gần hay chống xâm nhập, vì âm đẩy âm (cùng dấu thì đẩy nhau, theo nguyên tắc vật lý). Về cơ bản thì điều này cũng không có gì khó hiểu hay phức tạp lắm. (bùa trừ tà, hộ mạng, trấn yểm, hóa giải… đều thuộc dạng này).

Nhưng bất cập hại ở chỗ tha lực bị nhốt vào bùa, ta không thể biết được bản chất nó tốt hay xấu, thầy bùa cũng không biết nốt (những người thực sự hiểu biết rõ thì họ thường sống ẩn dật, đã không còn làm bùa). Và cái tâm lực của người làm bùa khi làm đã không đủ độ (cùng một câu chú nhưng không phải ai đọc cũng có quyền năng, tác dụng như nhau, điều này phụ thuộc vào năng lực của người đọc), nên đôi khi đã không đủ sức để cầm giữ tha lực trong đó, tha lực đó thay vì giúp ta có khi lại quay ra quấy phá chúng ta.
Giống như việc chúng ta thuê một nhân viên bảo vệ đến nhà để bảo vệ gia đình mình, nhưng đôi khi người bảo vệ này lại nổi lòng tham ác, có thể trộm cắp tài sản, hoặc làm những việc phương hại đến gia đình chúng ta. Vì không phải lúc nào anh ta cũng nghe lời, hay bị ràng buộc bởi những quy định của công ty bảo vệ nơi đã tuyển dụng anh ta vào làm.

Nếu chúng ta mang một lá bùa về nhà, hay mang trong người mà không đem lại tác dụng như ý muốn, có khi còn phản tác dụng, tình hình còn xấu hơn, vậy chúng ta nên giải quyết cách nào?
Đốt đi chăng? Không thể đốt. Khi lời chú chưa được giải, đốt lá bùa là ta đã làm mất chỗ trú ngụ của tha lực, khi đó còn tệ hại hơn. Vứt đi chăng? Làm thế là ta đã ngược đãi họ.
Trước đây lão cũng từng hướng dẫn các học viên của lão cách giải bùa chú theo nguyên lý âm dương và trường năng lượng (Bùa chú thuộc năng lượng âm, Thiền là năng lượng dương, dương thịnh thì âm sẽ suy), nhưng quả thực rất hao tổn tâm sức, và đôi khi có rất nhiều thứ liên quan, phức tạp, nên lão đã khuyến cáo họ không nên làm nữa.
Cách tốt nhất là nếu bùa không có tác dụng mà nghi ngờ còn phản tác dụng thì chúng ta hãy mang lá bùa trả lại cho ông thầy bùa mà chúng ta đã xin, kèm theo chút lễ vật. Còn có giải được lá bùa đó hay không hay xử trí thế nào thì đó là việc của ông thầy, chúng ta không bận tâm đến nó nữa.

Tại sao phần lớn bùa chú thông thường không mấy khi có tác dụng rõ rệt?
Vì các câu chú thường chỉ được truyền miệng lại bằng một thứ âm ngữ mà không phải ông thầy nào cũng hiểu nghĩa, nên dễ tam sao thất bản. Các thầy đã đọc không chuẩn, có người vì lâu ngày không dùng đến nên cũng quên, chẳng nhớ rõ.
Vì các câu chú thường viết bằng cổ ngữ, hay một thứ dịch nghĩa nào đó, các thầy nhà mình chẳng hiểu đó là chữ gì, chỉ thấy toàn giun dế thôi, nên nhiều khi viết theo để lưu giữ cũng sai. Hoặc chỉ được truyền khẩu mà không lưu lại bằng ngôn ngữ...
Vì hình vẽ của lá bùa nhiều khi các vị vẽ cũng không chuẩn xác, không đảm bảo độ to nhỏ, hay cự ly giữa các nét vẽ, các vị cứ vẽ bừa. Mức độ uốn cong nét vẽ thế nào là vừa, bao nhiêu vòng xoáy trôn ốc thì đủ, có vị do không hiểu biết nên còn giả vờ nhắm mắt lại vẽ để biểu thị sự huyền bí với người xem...
Hơn nữa khi đọc một câu thần chú không phải ai cũng có thể hô được thần, gọi được thánh về để trợ giúp mình, ai đọc chú cũng có thể hiệu triệu được thần thánh, ma quỷ thì có mà... loạn.
Những người tu luyện, thực sự có khả năng thì chẳng mấy ai lại đi sa đà vào cái việc này. Có chăng chỉ là giới hành tà đạo làm mà thôi, phần lớn cũng đều do thiếu hiểu biết về cội nguồn, chân lý. Chỉ nhất thời thích thú với những điều huyền bí, huyền thuật mà ra, dân gian gọi đó là những “thầy bùa”, theo ngôn ngữ tây phương thì là “Pháp sư, Phù thủy...”
Nếu chúng ta tỉnh táo, không bị mê hoặc và có sự nhìn nhận, hiểu biết cơ bản thì khi gặp gỡ họ, chúng ta sẽ biết ngay được một ông thầy nào đó thực sự có khả năng làm bùa chú hay không, hay chỉ là phường lừa bịp.

Một điều nữa là, những lá bùa mà đã “phô – tô” lại thì không hề có tác dụng, cho dù có đóng dấu gì, ấn gì hay triện gì lên đó, đỏ hay xanh đi nữa. Những vật vô tri thì khó mà phát ra năng lượng được.
Như chúng ta đã phân tích ở trên, nếu khi chúng ta có nhu cầu về bùa chú, thì phải xác định được vấn đề của ta là gì? Cần giải quyết ra sao?. Khi đó ta phải gặp trực tiếp, nói rõ để người làm bùa hiểu được vấn đề. Thường họ cũng phải tìm hiểu các mối quan hệ, các sự liên quan của ta nữa để họ có cái nhìn toàn cảnh hơn. Lúc đó người làm bùa mới biết nên dùng loại bùa gì, thêm bớt ra sao, không ngoại trừ sự liên tưởng tâm linh giữa ta với lá bùa nữa. (Nó giống như việc bác sỹ kê đơn thuốc cho bệnh nhân vậy, đừng hy vọng dùng đơn thuốc của người này để chữa khỏi bệnh cho người khác).

Khi vẽ, năng lực của câu chú sẽ thoát ra từ tâm thức (cầu nối) của người vẽ, có khi truyền qua tay của họ mà đi vào nét bút (lão đã từng vẽ nhiều dịch quái, linh phù để chữa bệnh cho người khác nên lão hiểu rõ điều này).
Cho nên bùa phải được vẽ, phải đọc chú trực tiếp (thông thường để đảm bảo sự linh ứng thì phải có mặt khổ chủ ngồi bên cạnh), thế nên mỗi lá bùa chỉ dùng cho 1 trường hợp, một đối tượng cụ thể mà thôi. Do vậy không thể in ấn, bán tràn lan, hay một loại bùa lại đem dùng cho nhiều người có hoàn cảnh khác nhau, tên họ khác nhau, sự việc không giống nhau được. Cho nên bùa chú mà chỉ được mua ở hàng quán, thỉnh ở chùa chiền thì chỉ là thứ... an ủi tâm lý mà thôi.
Bạn nào đã từng đi kiếm một lá bùa theo kiểu này thì biết, thấy tình hình chẳng tốt, cũng chẳng xấu hơn. Nhưng cũng có một nhược điểm của nó là khi ta dán những lá bùa này theo lời dặn lên trước cửa chính, trên cửa phòng ngủ, phòng khách hay ban thờ... thường gây một cảm giác “nghi ngại” cho khách đến nhà. Họ không hiểu mình thuộc giới tà thuật, hay là có hoàn cảnh gì đó dị thường nên mới dùng bùa. Mà trong tâm lý giao tiếp, làm ăn người ta lại muốn tránh những dạng người này vì sợ xui xẻo, và thế là lợi đâu chưa thấy, nhưng đã bắt đầu “có hại” rồi đấy. Với những loại bùa chú kiểu này nếu thấy “không thích” nữa, chúng ta có thể tự tay gỡ bỏ (cho dù trước đó đã nhờ thầy làm lễ, dán lên), cho vào sọt rác, không sao cả.

(Một khu chợ bùa chú và đồ vật trấn yểm ở châu Phi)

Các đồ vật dùng trấn yểm cũng vậy. Ngày nay có nhiều người vì không hiểu biết, chỉ vì nghe nói nên cứ đi mua, đi cầu những thứ này vật nọ để về hóa giải phong thủy, trấn yểm trong gia đình, nhằm mong đạt được điều gì đó. Những luận điệu này chỉ là do giới buôn bán, trục lợi lan truyền mà thôi. Những thứ được sản xuất hàng loạt, máy móc, vô tri thì sẽ chẳng có tác dụng gì. Người nào đã từng thử thì biết, đôi khi còn gây ra sự phức tạp, để lại thì thêm rối rắm, bỏ đi thì lại sợ... Nếu một vật thực sự có tác dụng trấn yểm thì cũng không thể dùng tùy tiện, vì nó sẽ phá hỏng trường năng lượng mà nơi ta đang sinh sống, thường thì hại nhiều hơn là lợi.

Về cơ bản, lão đã nói rõ bản chất của bùa chú, việc trấn yểm... đó là con dao 2 lưỡi, dùng hay không tùy bạn. Tuy nhiên, theo lão thì để giải quyết một vấn đề gì đó, sẽ có nhiều cách khác nhau, nên chọn những cách đơn giản hơn, hiệu quả mà không bị cuốn vào vòng phức tạp.

Phần II: NGẢI

Ngải thuộc họ thực vật, thân thảo, có củ. Củ nhỏ nhất thì nhỏ hơn củ nghệ một chút như ngải đen, ngải nàng thâm, nàng xoài; lớn hơn thì có thể to bằng con heo đất như ngải hổ, ngải tượng...vv... Một số loài đã có tên khoa học và đã được công nhận tính năng chữa bệnh hay giúp ích cho cơ thể con người, bởi các nhà nghiên cứu khoa học công bố. Chẳng hạn có những loại củ cây ngải có thể giúp tăng cường sinh lực, tăng sự dẻo dai mà dân phu trầm thường hay dùng trong những chuyến luồn rừng dài ngày. Người ta thường hay nói “ngậm Ngải tìm trầm” là vì thế. Nhưng đa phần cây ngải vẫn còn mang nhiều bí ẩn mà tên gọi chỉ được truyền miệng qua kinh nghiệm dân gian.
Ngược lại với những loài ngải có tính dược liệu thì cũng có những loại ngải có tính độc, nhẹ thì gây mẩn ngứa ngoài da, nặng hơn thì có thể ngộ độc, dẫn đến bệnh tật hoặc mất mạng.

(Một rừng cây có khả năng ăn thịt trên núi Koh Pov, Campuchia)

Giới luyện ngải thường dùng một loại cây Ngải biết ăn thịt, để tăng thêm sự huyền bí. Thực tế, theo khoa học thì trong tự nhiên có những loài cây mà khi sống ở những nơi đất bạc màu, để có thêm dưỡng chất nuôi thân, hoa của chúng tiết ra một loại dịch tạo mùi để hấp dẫn côn trùng. Khi chạm vào, chúng sẽ có cơ chế cử động giống như lá của cây xấu hổ để “ôm” lấy con mồi, rồi tiết những dịch có chứa vi khuẩn và thành phần hóa học phân hủy chất hữu cơ tạo thành dưỡng chất nuôi cây.
Những cây non dưới 3 năm tuổi chỉ có thể bẫy được côn trùng nhỏ như ruồi, muỗi... Cây trên 3 năm tuổi thường cao khoảng 0,5 mét, thân cành chằng chịt rối rắm thành một bụi lùm có thể bắt chim chóc, chuột, sóc... Những cây trên 5 năm tuổi tạo thành một bụi lùm khoảng 1 đến 2 mét vuông trở lên sẽ bắt được những động vật lớn hơn như gà, chồn... (Bạn vào youtube và tìm cây ăn thịt, hay thực vật ăn thịt thì sẽ có những hình ảnh sinh động về loài cây này).
Khi tiếp xúc với loại cây họ này chỉ cần cẩn thận với những chất dịch tiết ra từ hoa của nó. Nếu chạm vào da, những giọt a xít ấy không đủ làm phỏng ngay, nhưng cũng đủ để gây dị ứng, tấy đỏ. Chỉ cần dùng cồn để xoa vào diệt khuẩn rồi dội nước để rửa sạch chất axít là được.

Tương truyền rằng, khi luyện ngải, các thầy bùa, pháp sư phải nuôi ngải bằng máu gà và máu của mình... rồi tắm cho ngải, cho ngải ăn vào giờ nhất định, đọc thần chú cho ngải nghe..vv... Chăm ngải còn hơn cả chăm con so, cùng với đủ thứ chuyện ly kỳ, thâm u huyền bí khác.
Thực tế, với những loài cây có thể hấp thụ protein của động vật, thì việc protein đó được lấy từ máu gà, máu người, hay từ những động vật khác như côn trùng thì nguyên lý cũng đều như nhau, chẳng có gì khác biệt. Cũng giống như việc khi ta có thể ăn thịt gà, thì cũng có thể chén được thịt voi vậy.
Nhưng vì sao trong việc “luyện ngải” người ta lại thêu dệt nên lắm chuyện đến thế? Việc cho ngải hấp thụ máu người luyện có thật hay không? làm vậy để làm gì? Không làm như thế thì ngải sẽ không hiệu nghiệm hay sao?..vv.. và còn bao nhiêu truyền tụng ly kỳ, bí hiểm hư hư, thực thực nữa.

Lão cũng không có ý đề cập chi tiết mọi việc ở đây, điều này lão nghĩ chính các vị được gọi là chuyên gia “luyện ngải” đôi khi cũng không hiểu, chỉ vì được học như thế nào thì làm như thế thôi, chỉ vì cứ nghĩ phải làm như thế thì Ngải nó mới linh..vv...
Cũng như nhiều người đã không hiểu khi theo học một phương pháp, một giáo phái nào đó tại sao lại có lắm quy tắc, giới luật rườm rà phải tuân thủ đến thế, thậm chí nhiều thứ còn chẳng được hiểu là để làm gì.

Tư tưởng sẽ định hướng cho hành động, tư tưởng và hành động huyền bí sẽ tạo nên đức tin vào những huyền thuật. Đức tin sẽ giúp chuyển biến được tâm thức, và từ tâm thức có thể đi vào thế giới tâm linh. Đó là con đường phải đi của giới huyền thuật, tạo nên những hiện tượng, những khả năng khác thường nằm ngoài phạm vi hiểu biết thông thường của đời sống, trong đó có hiện tượng Bùa, Ngải.
Lão sẽ giải thích mọi thứ vào một dịp khác, để các bạn sẽ hiểu thế nào là tâm thức, tâm linh, những hiện tượng huyền bí, những khả năng khác thường từ đâu mà ra, những điều lạ lùng do đâu mà có. Bản chất của huyền thuật, của Mật Tông cũng như của Thôi miên và một số trường phái khác là gì. Lý do vì sao những ông thầy khi luyện Ngải, hay những người xin ngải về để sử dụng vào mục đích gì đó, hoặc bị ngải hại khi được “trục” ngải lại thường phải tuân theo, làm theo những việc, những lời dặn... kỳ quặc ?!
Những bạn học thiền cấp 3 ở chỗ lão sẽ được tìm hiểu ít nhiều, để từ đó có thể tự tin mọi lúc, mọi nơi, biết cách ứng xử, đối diện với mọi hoàn cảnh, biết cách chữa khỏi mọi bệnh âm mà không sợ rơi vào ma trận của thế giới huyền bí.

(Một loại Ngải hoa có màu đỏ, có nhựa độc)

Về bản chất thì ngải không khác gì Bùa chú. Dân gian cho rằng có những người chết trở thành những vong linh đói khát, oan khuất, lang thang vất vưởng. Họ thường tìm đến những nơi có thể được cho ăn như đình chùa để được thí thực, được thỏa cơn đói khát, được thỏa mãn ham muốn của mình. Giới luyện ngải cho rằng khi có những loài cây có thể ăn được thịt, thì những vong linh cũng có thể nương tựa vào những cái cây đó để thỏa mãn được nhu cầu ăn uống và những ham muốn khác của mình. Nuôi cây, nuôi ngải, nghĩa là nuôi vong, và tôi nuôi ông thì ông phải làm gì đó cho tôi.
Tương truyền các thầy pháp thường đọc thần chú để nhốt vong vào ngải khi luyện ngải, chăm sóc cầu kỳ để vong không bỏ đi, và khi cần thì sai khiến ngải (vong) làm việc gì đó cho mình.
Theo quan niệm, Bùa chú thì nhờ trợ lực của thần chú mà nhốt vong vào nét vẽ, tờ giấy. Ngải thì dùng thần chú để vong lệ thuộc vào một loại thực vật. Về cơ bản không khác gì nhau. Nên cứ gọi chung là Bùa ngải. Bên Thái Lan, Lào, Miên (Campuchia), những lá linh phù đi kèm những câu thần chú cũng đều được gọi là Ngải.

Ngày nay giới truyền thông đã tuyên truyền quá mức về mức độ huyền bí của Bùa ngải. Những cụm từ như huyền thuật, kỳ lạ, hãi hùng, không thể tưởng tượng, chết cả nhà..vv... Đã vô tình tạo ra tâm lý hoang mang cho người đọc. Mục đích ban đầu của họ chắc cũng chỉ là gợi sự tò mò để thu hút người đọc, câu khách mà thôi. Đọc cách miêu tả của họ thấy gần giống với các bộ phim kinh dị nói về Bùa ngải của Thái Lan. Đôi khi vì muốn người đọc phải tin nên nhiều người viết tự xưng mình là nhân chứng (có người là nhân chứng thật, nhưng cũng không hiểu là mình đang “chứng” cái gì?). Có người thì trích dẫn lời của các “cao thủ” bùa ngải... mà các “cao thủ” giả hay thật đó cũng vậy, có người còn không hiểu việc mình làm, có người hiểu bản chất nhưng lại cố tình nói khác đi..vv...
Và còn nữa, đôi khi người viết còn dùng cách viết kiểu hù dọa, buộc người ta phải tin. Vô tình họ đã tạo ra những điều không tốt cho xã hội, một số người trở nên hoang mang, nghi kỵ và đề phòng lẫn nhau trong cộng đồng. Và khi không hiểu thì họ cũng tìm đến những nơi “không hiểu” để giải quyết, và đã tạo cơ hội cho không ít kẻ lợi dụng mê tín trục lợi. Tiền thì mất mà mọi thứ càng trở nên phức tạp hơn.
Ngôn ngữ thì thôi rồi, sử dụng toàn những từ ngữ ẩn dụ để nhằm gây sự tò mò và tạo cảm giác huyền bí, ám ảnh. Một cây Ngải thuộc nhóm thảo mộc, có hoa màu đỏ, nhựa có chất độc thì họ phóng tác một cách văn vẻ gọi đó là “Huyết ngải độc thần tướng” !?? Là một trong những bảo bối tối thượng, chứng tỏ đẳng cấp của các ngải sư..vv...
Người không hiểu biết thì dễ lạc vào cái gọi là mê trận của Bùa ngải, do những người khác vô tình hay cố ý giăng ra.

(Một thầy pháp đang thao tác yểm bùa thông qua hình nhân)

Vì sao bùa ngải có thể tác động vào người bị hại ?

Nguyên tắc khi gieo Ngải là: Cần phải có họ tên, địa chỉ, của người sẽ bị tác động bởi Ngải. Hoặc có ảnh hoặc hình nhân thế mạng của người bị tác động, và những “ông thầy” sẽ “thao tác” trên ảnh hay hình nhân đó. Có trường hợp lại dùng Ngải trực tiếp, cho ngải độc vào quần áo, vào thức ăn, nước uống của người bị hại..vv...
Giới truyền miệng, giới cầm bút, hoặc những người đi xin Ngải do không hiểu về bản chất, mà chỉ căn cứ vào hiện tượng bên ngoài nên đã phóng tác và mô tả một cách vô tiền khoáng hậu. Nào là thầy bùa đã làm như thế này, người bị hại đã bị như thế kia, cách làm, cách bỏ bùa, ngải, thư, ếm; cách giải mỗi nơi một kiểu..vv...

Chúng ta chỉ nên nhìn nhận một cách đơn giản, và đúng bản chất hơn.
Khi bị tác động (nếu người ta thực sự tác động được, bằng cách này hay cách khác, bằng tâm lý, tư tưởng hay thể chất), thì người bị hại sẽ bị nhiễm một lượng âm khí (năng lượng âm, hay nói cách khác, dẫn đến mất sinh khí, dương khí) nhất định, nhiễm ít thì gây ra mệt mỏi, ủ rũ, chán nản, đau nhức..., nhiễm nhiều hơn sinh ra tâm thần, hoang tưởng, bệnh tật... Từ đó ảnh hưởng đến đời sống, công việc, nhiễm nặng có thể dẫn đến mất mạng.
Vì vậy, nguyên lý khi giải Bùa ngải là làm sao cho người bị hại được tiêu trừ âm khí trong cơ thể (hay nói cách khác, phục hồi được dương khí, sinh khí). Từ đó mọi triệu chứng cơ thể biến mất, người bị hại sẽ trở nên khỏe mạnh bình thường.
Nguyên tắc chỉ có vậy, nhưng đôi khi để tăng thêm vẻ huyền bí, thần thánh hóa, nhiều “ông thầy” đã vẽ ra đủ các kiểu cách thực hiện. Có người cũng chẳng hiểu được cơ chế tác động, hay tác động như thế nào của việc họ làm.
Nếu cứ tin và giải quyết Bùa ngải theo kiểu: có một hay nhiều vong (âm binh) theo hại ta (do người khác yểm bùa, gieo Ngải), ta liền phải nhờ một ông thầy bùa ngải khác cao tay ấn hơn giải giúp, nghĩa là nhờ một lũ âm binh khác mạnh hơn đến xua đuổi, đánh nhau với lũ âm binh cũ, bên nào mạnh hơn thì bên đó thắng. Rồi bên thua lại tiếp tục đi tầm thầy cao hơn nữa... Nghĩa là lúc đầu chỉ có một hoặc vài âm binh theo quấy phá ta thì giờ đây lại có cả một đàn. Theo kiểu bảo kê hay thanh toán nhau của xã hội đen. Cứ theo cái kiểu giải thích và giải quyết Bùa ngải như thế thì chẳng thể có hồi kết, và người ta cứ mãi lạc vào mê trận của Bùa, của Ngải, cuộc sống càng ngày càng trở nên bất an hơn và chẳng còn biết đâu mới là sự thật, và đâu là lối ra.

Như lão đã nói ở bài Âm dương. Theo nguyên lý âm dương thì vạn vật có trong vũ trụ đều không nằm ngoài hai yếu tố âm và dương. Từ cuộc sống hữu hình đến thế giới vô hình, từ đời sống đến tâm linh, từ con người đến mọi yếu tố liên quan. Và chân lý luôn là, dương thịnh thì âm sẽ suy, và ngược lại.
Bùa, Ngải chủ về âm, năng lượng âm. Mà đặc tính của âm là hư hoại, bệnh tật, đổ vỡ, không may mắn...
Chỉ cần dùng yếu tố dương cân bằng lại là được. Đặc tính của dương là thành công, may mắn, khỏe mạnh... sự sống của một con người phụ thuộc vào dương khí mà người đó có. Một người sẽ chết khi mất hết dương khí, chỉ còn lại âm khí mà thôi (đến đám ma bị nhiễm hơi lạnh là vì thế). Một người âm khí thịnh (nhiễm năng lượng âm) thì dương khí bị suy giảm, từ đó dẫn đến bệnh tật, ảnh hưởng đến sức khỏe và những điều không mong muốn.
Trong tính chất của Ngải cũng mang rõ nét âm dương. Ví dụ những loài cây Ngải gây độc, gây bệnh thuộc tính âm, trong luyện ngải người ta thường dùng nhiều cách làm cho nó trở nên âm hơn để tăng độc tính. Nhưng cũng có loại Ngải có tính dương, chứa nhiều dương khí, có tác dụng chữa bệnh như củ cây Ngải nàng thâm. Do vậy dùng Ngải nàng thâm cũng có thể hóa giải (cân bằng âm dương) được những loại ngải độc khác.


Hiểu biết nguyên lý âm dương và cơ chế tác động của trường năng lượng, sẽ giúp ta miễn nhiễm với mọi loại Bùa, Ngải, chẳng cần phải lo sợ bởi thế giới huyền bí, huyễn hoặc.
Khi đó ta sẽ hiểu vì sao giới giải Bùa, trục Ngải lại hay dùng thần chú hay bùa hộ thân..., những nghi lễ huyền bí rườm rà; giới "trục" Ngải lại dùng một biện pháp chẳng mấy tâm linh đó là... lăn trứng gà luộc, rồi lấy ra được toàn móc câu với dao lam trong cơ thể người bệnh.??

Bản chất thì cũng chỉ là âm với dương, chỉ có một, nhưng cách người ta miêu tả và giải thích thì có muôn vàn, vô thiên địa, và không hiểu biết thì cứ mãi lòng vòng.
(Dịp nào đó lão sẽ có bài viết sẽ giúp bạn giải mã thần chú, bản chất của thần chú là gì? Tại sao lại có thể tạo ra những quyền năng khác thường).

Phần III: GIẢI TRỪ VÀ PHÒNG TRÁNH BÙA NGẢI

Như đã nói ở bài trước, Bùa chú hay Ngải (gọi chung là Bùa ngải) cũng chỉ nằm trong phạm trù âm dương, những quy luật của tự nhiên, trời đất mà thôi. Cho dù nó có thuộc thế giới siêu hình hay tâm linh huyền bí.

(Hiểu biết là yếu tố đầu tiên để chữa khỏi mọi tật bệnh)

Do vậy, như lão đã nói ở bài “Âm dương cứu vãn đời sống, chữa khỏi mọi bệnh tật”. Chỉ cần hiểu rõ nguyên lý Âm dương thì sẽ biết vạn vật, hay tất thảy mọi hiện tượng có trong vũ trụ này đều không nằm ngoài quy luật của Âm dương. Biết cách điều chỉnh và sử dụng âm dương hợp lý thì có thể giải quyết mọi việc, giải thích mọi hiện tượng, chữa khỏi mọi bệnh tật. Giúp ta lấy lại sự cân bằng, lập lại trật tự trong đời sống từ đó đem đến hạnh phúc và mọi điều may mắn.
Hiểu đúng bản chất hiện tượng, và bình tĩnh ứng phó, xử lý mọi tình huống một cách tỉnh táo, logic. Đừng bị ám ảnh bởi những sự ly kỳ, sợ hãi, ma mị mà giới cầm bút và giới truyền miệng phóng tác nên. Có con người thì mới có thế giới tâm linh, và có những thứ liên quan, đó là chân lý. Cho nên con người chúng ta có thể hiểu, tác động và giải quyết mọi việc một cách thỏa đáng.
Các thầy pháp, thầy bùa thì sử dụng đủ mọi cách khó hiểu, kỳ quặc, nhằm gây nên sự sợ hãi mơ hồ, hoang mang cho người khác. Đừng bận tâm, đó chỉ là hiện tượng bên ngoài, không phải bản chất bên trong. Nếu chúng ta có kiến thức thì sẽ biết ngay những biện pháp đó sẽ có hiệu nghiệm hay vô hiệu với một người bệnh cụ thể. Bản chất thì giống nhau, nhưng tùy từng đối tượng cụ thể sẽ có những biểu hiện khác nhau, bởi con người khác nhau. Do không hiểu, không nắm được bản chất nên không phải trường hợp nào các thầy pháp cũng giải quyết được.

Nếu là một người thầy thông hiểu thì người thầy đó sẽ biết cách hướng dẫn cho từng người bệnh theo nhiều cách khác nhau, tùy theo trường hợp chứ không phải chỉ rập khuôn một kiểu. Khi ta hiểu bản chất, và biết được căn cơ, tình trạng, mức độ của người bệnh thì sẽ biết chọn cách nào để có tác dụng với người bệnh đó. Vì hoàn cảnh, nhận thức, trường hợp mang bệnh và khả năng tư duy của từng người bệnh là khác nhau. Với người mê tín có khi phải dùng phương pháp mê tín, với người trí thức phải dùng phương pháp khoa học..vv... Từ đó mới có thể giúp được cho người bệnh.
Có người chỉ cần một câu nói, một cái vỗ vai... đã có thể khỏi bệnh. Nhưng cũng có người lại cần có một cuộc cách mạng cho tinh thần và cho thân thể mới có thể giải quyết. Nếu không thực sự hiểu biết bản chất và có kiến thức về nhiều lĩnh vực, chỉ thực hành rập khuôn theo một kiểu đã họ được, thế thì không phải áp dụng cho ai cũng hiệu quả.

Bản chất của Bùa ngải, nhìn theo nguyên lý âm dương thì nó rất âm. Theo quy luật tác động thì âm sẽ đẩy (chống lại) âm. Như trong việc bói toán, những ông thầy có vong (âm) theo trợ giúp, nhưng nếu người đến xem lại mang một lá bùa (âm) trong người thì thầy không thể xem được là vì thế.
Hay khi giải bùa ngải, thường thì các thầy pháp lại cho ta mang một lá bùa hộ thân (âm), để cản trở các thế lực âm khác. Nhưng mà ta thì chán chuyện Bùa ngải rồi, lúc nào cũng phải mang theo trong người, phiền phức lắm, chẳng biết thực hư thế nào, nhưng rồi vẫn cứ phải bận tâm khiến cho ta ngày càng thêm mệt mỏi. Vậy phải làm sao?

Khi đi vào những nơi nhạy cảm, hoặc đi lên miền núi, vào vùng sâu, hay gặp những đối tượng mờ ám… nếu sợ bị chuốc bùa ngải, thì chúng ta chỉ cần mang theo một vật rất âm bên mình là được. Chẳng hạn chúng ta lấy một ít phân ngỗng, phơi khô, cất vào túi vải. Lúc nào cảm thấy cần thì mang đi theo bên mình (về nhà thì khỏi cần). Nếu phân ngỗng có thêm một ít lông của một con heo đen từ đầu đến chân thì càng tốt, lấy phần lông ở bụng.
Các động vật như ngỗng, heo thuộc động vật khá âm, nên phân ngỗng hoặc lông heo sẽ rất âm. Theo nguyên lý âm dương, thì âm sẽ chống lại (đẩy) âm. Chúng ta dùng cách này sẽ phòng tránh được bùa ngải mà lại chẳng có hại gì và khỏi phải phiền phức.
Dân gian cho rằng Tỏi có thể trừ được tà ma cũng bởi vậy. Theo tính chất âm dương thì tỏi là một thực phẩm mang nhiều tính âm.

Ví dụ sinh động về âm chống âm, dương đẩy dương:
Rắn và Ngỗng là 2 loài rất âm, nên chúng rất kỵ nhau. Bọn trộm thường dùng một con rắn sống hoặc chết, ban đêm quẳng vào giữa đàn ngỗng, ngỗng liền dạt về một phía và im thin thít, thế là bọn trộm tha hồ bắt ngỗng bỏ túi.
Chó và Hổ là 2 loài đều rất dương, nên chó nếu cảm nhận được dương khí phát ra từ Hổ, thậm chí khi còn cách xa thì thường sợ hãi cụp đuôi, lủi vào bụi rậm và không dám sủa. (Chúng ta có thể thử cao hổ cốt thật giả bằng cách này).

(Thiền sư)

Giải trừ, Hóa giải bùa ngải:
Còn trường hợp nếu xác định chắc chắn đã lỡ dính phải Bùa ngải thì sao?
Người bị dính Bùa ngải do người khác hại, cơ thể thường có những cơn đau buốt không thể diễn tả, có khi cảm giác như cơ thể bị chẻ dọc, có khi cơ thể biến đổi bất thường, có khi mất tự chủ, tâm thần bấn loạn, nặng thì có thể dẫn đến mất trí, điên khùng..vv... Nhưng tuyệt nhiên đi khám thì không thể phát hiện ra bệnh gì.
Có người thường trong một ngày vào những giờ nhất định sẽ bị đau yếu, mỏi mệt vô cùng, tinh thần bất định hoảng hốt, sợ hãi vô cớ... Sau giờ đó lại hết triệu chứng hoặc nhẹ đi hẳn. Giới đồn thổi cho rằng đó là do thầy pháp sai âm hành vào những giờ “tứ hành xung” của người bị hại để tăng hiệu quả ??

Trong Kinh Phổ Môn, Đức Phật dạy cách hóa giải bùa ngải như sau:
Chọn một bức ảnh hay một pho tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đẹp đẽ, ngắm nhìn bức ảnh hay tượng đó trong nhiều giờ để khắc sâu hình ảnh đó vào trong tâm trí của mình.
Múc một ly nước sạch, chọn một nơi bình yên, tĩnh lặng để dễ tập trung tâm trí.
Để ly nước sạch trước mặt và bắt đầu niệm: “Nam mô đại từ đại bi, cứu khổ cứu nạn, Quán Thế Âm Bồ Tát”. Niệm liên tục, lặp đi lặp lại nhiều lần và tưởng hình Quan Âm hiện ra trong ly nước. Nhất tâm tụng niệm, không để những tạp niệm khác khác nổi lên, xen lẫn vào trong đầu. Khi nhìn thấy hình ảnh Quán Thế Âm Bồ Tát hiện lên rõ ràng trong ly nước, thì bưng ly nước lên ngang trán khấn nguyện: “con là...(họ tên), hiện đang ở (địa chỉ)... nay chẳng may gặp nạn do Bùa ngải, do người khác hại..vv.. Cầu mong đức Quán Thế Âm Bồ Tát gia hộ, biến ly nước này thành Cam Lồ, để hóa tán được nghiệp chướng mà con đang mang, giúp con qua được kiếp nạn này, giải trừ mọi Bùa ngải... con xin chân thành cảm ơn ngài...”
Khấn nguyện xong thì bưng ly nước đó lên uống. Mọi thứ bùa ngải ngay lập tức được giải trừ. Nếu người bệnh không còn khả năng tỉnh táo để niệm thì người khác có thể niệm hộ, và khi khấn nguyện phải nêu rõ tên tuổi, địa chỉ người cần được hóa giải.
Trong thực tế, khi bùa ngải được hóa giải, thì người gieo bùa thường gặp phải quả báo ngay sau đó.

Tóm lại để kết thúc cho chuyện bùa ngải, cái chuyện mà giân dan đã thêu dệt, dẫn dắt nó đến chỗ quá huyền bí, ma mị, khiến cho nhiều người cũng thấy ngán ngẩm. Thế giới siêu hình, siêu tưởng khi hiểu thì nó cũng không đến mức đáng sợ như ta nghĩ.
- Khi có chút thất bại trong công việc, bất hòa trong gia đình, đổ vỡ tình cảm, cơ thể có chút thay đổi, hay bệnh tật... thì đừng vội thần hồn nát thần tính, cho rằng mình đã dính bùa ngải, đã bị người khác hại, đã bị vong âm theo quấy rối. Hãy bình tĩnh, phân tích, nhìn nhận một cách công bằng và đúng với bản chất sự việc đã xảy ra, để loại trừ dần các yếu tố. Can đảm nhìn thẳng và đối diện với bản thân mình là điều nên có, dám hỏi và dám chấp sự việc có phải do mình hay không, một cách trung thực là cơ sở để tìm ra cách giải quyết vấn đề.

Có bạn bị người yêu bỏ thì cứ nghĩ rằng người yêu mình bị người khác chuốc Bùa ngải? Trước mắt bạn hãy nghĩ rằng mình với họ có còn phù hợp không? mình còn đáng yêu trong mắt họ hay không đã chứ. Họ cũng như mình thôi, thông thường sẽ không thể yêu lại một người mà mình đã hết yêu.
- Làm ăn đổ bể, gia đình bất hòa, hãy xem có phải mình đã sai điều gì đó, từ đó biết mà sửa mình, từ chỗ biết sửa mình và thay đổi cách thức làm ăn cho phù hợp sẽ giúp giải quyết vấn đề.
- Bệnh tật thì hãy học hỏi, đừng bảo thủ; sẵn sàng học hỏi cái mới. Tìm cách hiểu nguyên nhân gây nên bệnh và cách chữa khỏi bệnh tật một cách đúng đắn, chẳng chịu thương chịu khó mà cứ sa đà vào chuyện Bùa ngải, có khi chưa giải được Bùa ngải thì đã mất mạng vì bệnh tật rồi.
- Khi loại trừ dần các yếu tố, ta sẽ dần biết mình có bị bùa ngải gì đó hay không. Và hãy sáng suốt tìm hiểu, tốt nhất là có duyên gặp được một người hiểu biết về thế giới tâm linh, khoa học, chỉ cho mình con đường đúng, không phải đi lòng vòng để không phải mất nhiều thời gian và tiếp tục bị cuốn vào cái trận đồ bát quái ma mị đó.
Vì cho dù có là bùa ngải, có là người khác hại, thì nó cũng không nằm ngoài nguyên lý Âm dương, những quy luật của tự nhiên, đời sống, và đều có thể giải quyết được.

(Thiền năng lượng chữa bệnh – Giải trừ mọi bùa ngải)

Lão là người luôn quan niệm, mọi thứ đều có thể giải thích, hiểu và đều có thể giải quyết. Có chăng là bằng cách này hay cách khác mà thôi. Khi một người, một vật bị tác động thì hãy hiểu, cái gì đã tác động? cơ chế tác động đó đã xảy ra như thế nào? và cơ thể ta đã bị chuyển biến ra sao? vì sao gây nên các triệu chứng, hiện tượng đó?. Khi hiểu cơ chế tác động thì đồng thời ta cũng hiểu cách thoát khỏi sự tác động đó. Ở đây lão không có đủ thời gian để giải thích chi tiết mọi thứ, nhưng như lão đã nói, bản chất chỉ có 1, nhưng cách biểu hiện, giải thích thì có rất nhiều, và thông qua những cách thức giải quyết khác nhau cũng chỉ để tác động được vào bản chất thực của nó mà thôi.

- Những bạn ở xa, sau khi dùng phương pháp loại trừ các nguyên nhân như lão đã nói ở trên, nếu thực sự thấy mình bị Bùa ngải có thể làm thêm phương pháp này: dùng trứng gà ta có trống (một đầu to tròn, một đầu thuôn gọn), luộc chín, bóc vỏ và đem lăn lên khắp cơ thể, có thể lăn nhiều ở những chỗ đau hơn. Lăn càng nhiều càng tốt, càng nóng càng tốt luộc nhiều trứng, nguội trứng này thì thay trứng khác. Trứng đã dùng lăn lên cơ thể người bệnh xong thì bỏ đi, không cho người khác hay súc vật ăn. Lúc nguội hẳn, có thể bẻ trứng ra kiểm tra, nếu lòng đỏ chuyển màu xám đen, thì có thể người bệnh đã nhiễm Bùa ngải. Nếu lòng đỏ biến thành màu đỏ tươi thì người bệnh bị nhiễm từ lâu, có thể sắp dẫn đến mất mạng (thực tế điều này rất ít xảy ra). Tiếp tục lăn nhiều ngày cho đến khi lòng đỏ trứng không còn đổi màu, không còn những biểu hiện bất thường, trở về bình thường thì bệnh khỏi, Bùa ngải đã được giải trừ. Đây là cách đơn giản, dễ thực hiện và tương đối hiệu quả.

Như lão đã lý giải, Bùa ngải thuộc năng lượng âm. Trứng gà lại có nhiều tính dương nhất trong các loại thực phẩm (đọc bài: “Bảng phân loại thực phẩm theo tính chất âm dương”), nên khi dùng trứng lăn trên cơ thể, theo nguyên lý dương sẽ hút âm, từ đó trục hết được âm khí ra ngoài, giúp cơ thể trở lại cân bằng âm dương, từ đó khỏi bệnh. Ở đám ma của người mới chết, trong dân gian cũng thường cúng trứng luộc là vì thế, sẽ giúp hút bớt âm khí (hơi lạnh) của người chết.
- Những bạn ở xa, hãy làm như những gì mà lão đã hướng dẫn. Những bạn ở Hà nội thì hãy găp lão, lão sẽ hướng dẫn cho bạn cách giải quyết phù hợp với trường hợp của bạn, có thể đi con đường ngắn nhất để thoát khỏi mọi nghịch cảnh mà chẳng phải mất nhiều công sức hay tốn kém gì.

Thân và Tâm nói là hai cũng đúng mà là một cũng chẳng sai, vì tuy là hai nhưng nó gắn liền và tác động với nhau như là một. Khi thân bệnh thì tâm trí yếu đuối, lo sợ. Và ngược lại khi tâm bệnh thì dẫn đến thân đau yếu, mệt mỏi.
Thân dính bùa ngải không đáng ngại, chỉ cần làm cho thân thể mình dương lên là được, dương thịnh thì âm sẽ suy. Biết cách ăn uống đúng, kết hợp tập luyện bằng phương pháp hợp lý để nhanh chóng lập lại quân bình âm dương, hoặc các phương pháp bổ sung phù hợp khác để tăng trưởng dương khí cho thân thể, từ đó chữa khỏi Bùa ngải.

Tâm trí dính bùa ngải mới đáng ngại, vì tâm sẽ ảnh hưởng đến thân. Tâm trí lệch lạc, bất thường cũng sẽ gây nên sự đau nhức, bệnh tật và các hiện tượng bất thường cho cơ thể

Tâm dao động, hoang mang là Tâm âm, Tâm tĩnh lặng, bình an là Tâm dương. Dương thịnh thì âm sẽ suy.
Một phương pháp Thiền phù hợp, một sự hiểu biết về nhân quả cũng có thể giúp cho tâm ta an bình, tự tại. Tốt nhất bạn gặp được người hiểu biết, chỉ cho bạn phương pháp Thiền đúng, đễ nhanh chóng quân bình tâm trí. Vì nếu phương pháp không hiệu quả trong khi tâm trí mình đang yếu đuối sẽ không giúp mình chữa khỏi bệnh nhanh, từ đó dễ dẫn đến mất niềm tin, dễ rơi vào trạng thái tiêu cực, và con đường chữa khỏi bệnh sẽ càng trở nên mờ mịt hơn.

Vì sao tâm tĩnh lặng bình yên lại có thể làm cho cơ thể khỏe mạnh, dẫn đến đời sống yên bình, may mắn. Cơ chế tác động nào đã xảy ra? sự chuyển hóa nào bên trong cơ thể đã được chuyển biến và thay đổi những gì? Vì sao số phận, cuộc đời lại thay đổi? Điều này thuộc một phạm trù khác, phạm trù của Thiền và đời sống, liên quan chặt chẽ đến khoa học. Bạn hãy đọc những bài viết về Thiền và đời sống của lão để hiểu thêm ít nhiều, hoặc bạn sẽ hiểu hơn khi tham gia khóa học (miễn phí).

Cao hơn cả, vượt lên trên tất thảy mọi phương pháp, là trong đời sống hãy cố gắng nuôi dưỡng và sống cho mình một đời sống nhiều thiện tâm. Không lợi dụng, không dối trá, không mưu mô xảo quyệt, không gây phiền phức và đem lại sự khó khăn cho người khác. Không nên chỉ lợi mình, chỉ vì mình mà không biết vì người khác. Luôn nuôi dưỡng đời sống với một tấm lòng nhân hậu, vị tha, bao dung, độ lượng và luôn ngay thẳng, biểu hiện sự chân thành của trái tim.
Một đời sống thiện sẽ cho ta một nội tâm yên ổn, không dao động, là gốc rễ, là nền tảng của mọi sự yên bình và may mắn, miễn nhiễm với mọi loại Bùa ngải hay tà thuật.

(Đức Phật – Thái tử Tất-Đạt-Đa)

Đức Phật nói: “Tâm bất động, quỷ thần kinh”! Một nội tâm bất động trước các ác pháp và các cảm thọ, một cái tâm không hoang mang và dao động thì quỷ thần cũng phải kiêng và kính nể. Miễn nhiễm với mọi bùa ngải và ma thuật huyền bí.

Trong kinh Phật có kể câu chuyện rằng: “Một hôm Đức Phật đang ngồi Thiền dưới một gốc cây thì Ma vương và bè lũ của nó kéo đến quấy phá. Ma vương bắt đầu bắn những mũi tên nhằm vào Đức Phật. Những mũi tên tẩm độc có sức mạnh xé gió, tới tấp như mưa rào, lao nhanh. Nhưng thật kỳ lạ thay, khi những mũi tên đó bay đến gần Ngài thì liền rớt xuống, và biến thành những bông hoa xếp xung quanh chỗ Đức Phật đang tọa thiền...”

Đoạn này trong Kinh Phật chỉ muốn nói rằng với tâm từ bi, kham nhẫn thì không ma quỷ nào có thể chạm tới, cho dù gặp dữ cũng hóa lành. Tâm bất động, quỷ thần cũng phải kinh là vì thế.

Tâm thanh thản, bình an, vô sự. Sống không làm khổ mình và khổ người khác. Chìa khóa của hạnh phúc, an lạc, bình yên và may mắn chỉ có bấy nhiêu.

KHOA HỌC CỦA NGƯỜI XƯA

Ở cõi trần, tâm thức con người bị giới hạn bởi ba chiều không gian. Thật ra có nhiều chiều nữa mà ta không nhìn thấy. Khối óc của ta chỉ chấp nhận chiều dài, chiều ngang và chiều đứng mà thôi. Dĩ nhiên, mọi sự đi đứng, di chuyển cũng chỉ giới hạn trong ba chiều này. Nếu nói có một chiều đo thứ tư thẳng góc với ba chiều này thì chúng ta sẽ không thể tưởng tượng nổi. Nhưng không thấy được, đâu có nghĩa là nó không hiện hữu?
Muốn tìm hiểu chiều đo thứ tư này, ta cần dùng đến sự so sánh. Thí dụ có một con kiến đang bò trên một tờ giấy phẳng. Giả thuyết rằng con kiến không thể rời khỏi tờ giấy này được nên thế giới của nó chỉ là một mặt phẳng giới hạn trong hai bề đo. Dù nó biết suy luận nó cũng không thể quan niệm được bề đo thứ ba tức là bề đứng. Từ không gian ba chiều của chúng ta, ta có thể làm nhiều điều tầm thường mà con kiến cho là một phép lạ thí dụ như ta để một hạt thóc lên tờ giấy. Con kiến không thể hiểu hạt thóc từ đâu xuất hiện vì giới hạn trong hai bề đo của tờ giấy, nó nghĩ rằng mọi vật phải đến từ tờ giấy chứ không thể ở một cõi nào đó. Nếu con kiến muốn đi từ đầu giấy đến cuối, nó phải bò suốt chiều dài tấm giấy. Ðối với chúng ta, vì biết chiều đo thứ ba, ta có thể gấp tờ giấy lại để hai góc tờ giấy chạm vào nhau, con kiến chỉ cần nhúc nhích đã đi đến cuối tờ giấy. Nó không thể hiểu tại sao quãng đường dài bỗng biến mất, dĩ nhiên đối với ta việc này đâu có gì lạ. Vấn đề này có thể dùng để diễn tả thuật "Rút đất" của các Lạt Ma Tây Tạng. Một khi đã hiểu chiều đo thứ tư, mọi hiện tượng cõi âm đều có thể giải thích hết sức dễ dàng, khoa học.

Chúng ta đều biết đường thẳng được tạo ra bởi một điểm kéo dài theo một chiều nhất định. Nếu ta di chuyển một cái chấm khoảng 2 thước thì ta có đường thẳng dài 2 thước. Nếu ta tiếp tục di chuyển chấm ấy một khoảng cách 2 thước nhưng thẳng góc với đường cũ cho đến khi trở về khởi điểm thì ta sẽ có một hình vuông. Hình vuông có thể diễn tả bằng con số 2 bình phương theo toán học. Ðây là hình học mặt phẳng chứ không có gì lạ. Nếu ta tiếp tục di chuyển theo chiều đứng, thẳng góc với hình vuông cũ thì ta sẽ có một khối vuông (Cubic). Khối vuông có thể diễn tả bằng con số 2 tam thừa. Tóm lại ta có 3 hình: Ðường thẳng, hình vuông và khối vuông tương ứng với số 2, 2 bình phương, 2 tam thừa.

Hình học không gian ngừng ở đây, không đi xa nữa vì ta chỉ biết có 3 chiều mà thôi, nhưng toán học cho biết có thể có 2 tứ thừa, 2 lũy thừa năm, 2 lũy thừa sáu và nhiều nữa. Các con số toán học này đều có hình tương ứng trên phương diện hình học và tương ứng với 2 lũy thừa bốn hay bề đo thứ tư là chìa khóa vào cõi âm. Khoa Hình học cổ của Ai Cập không những chứng minh được mà còn có các dụng cụ để đo lường chiều thứ tư này. Trở về hình học phẳng, ta sử dụng thước kẻ để đo chiều dài. Ðể đo hình vuông ta sử dụng một thước khác gọi là thước vuông vì loại thước kẻ không thể đo góc vuông được. Cũng thế khi bước sang hình học không gian ta không thể dùng thước vuông vì hình vuông theo định nghĩa không có bề đứng, không thể đo hình khối được. Nếu di chuyển hình khối theo chiều đo thứ tư ta sẽ có hình gì? Dĩ nhiên ta không tưởng tượng được. Hình học Ai Cập cho biết nó là một hình bốn bề, có 16 góc, 32 cạnh và 24 mặt được giới hạn bởi 8 hình khối (Hình khối chỉ có 6 mặt 12 cạnh và 8 góc). Ngày nào khoa học chứng minh được hình này là họ mở cửa vào được chiều đo thứ tư. Toán học cho biết 2 lũy thừa bốn rất dễ chứng minh và từ toán học áp dụng để xây Kim Tự Tháp, đem các tảng đá vạn cân lên cao. Môn học này đã thất truyền trong quá khứ nhưng di tích của nó vẫn được ghi khắc trên những biểu tượng tại Kim Tự Tháp.

Khi vén màn vào chiều đo thứ tư, sự phát minh khoa học ngày nay chỉ là mảnh vụn, không đáng kể. Con người có thể du lịch khắp không gian và có quyền năng ngoài sự hiểu biết của người hiện tại. Trong thời buổi vàng son, dân Ai Cập đã đi khắp không gian, đến những giải ngân hà xa lạ nhưng tiếc thay sự giao tiếp với cõi âm của chiều đo thứ tư đem lại các hiểm nguy mà họ không biết. Chính vì thế nền văn minh này đã sụp đổ, biến mất trên mặt địa cầu chỉ vì thiếu một nền tảng trí tuệ sáng suốt, không biết phân biệt chân giả. Từ ngàn xưa, các bậc trưởng lão đã nhắn nhủ rằng sự tiến bộ phải song song với trí tuệ và chỉ khi trí tuệ khai mở con người mới đủ khả năng phân biệt hư thực, xé bỏ các mê lầm của vô minh. Tiếc thay các nhà lãnh đạo Ai Cập không nhận thức điều này nên mới xảy ra những điều đáng tiếc.

Khoảng 8 ngàn năm trước họ đã ở những xã hội hơn hẳn những xã hội tân tiến, văn minh nhất bây giờ bằng cớ là ngày nay, đã ai xây nổi Kim Tự Tháp chưa? Còn nhiều vấn đề thần bí khác mà một ngày nào đó khoa học sẽ khám phá?.

Ai Cập đã để lại những Kim Tự Tháp hùng vĩ, kiến thức vĩ đại vào mục đích gì? Ða số người Âu cho rằng đó là một tàng trữ thi hài những vua Pharaoh, có như vậy chăng? Tại sao triều đại Pharaoh có cả trăm vua chúa mà chỉ có vài vị cho xây Kim Tự Tháp? Nhưng người ta đâu có tìm thấy thi thể vua chúa nào trong Kim Tự Tháp đâu? Hơn nữa, trong Kim Tự Tháp làm gì có ám tự hay tranh ảnh nói về một cá nhân ông vua nào đâu? Chỉ có những nấm mồ đào được chôn sâu dưới đất mới có các xác ướp và tranh vẽ thôi, điều này thế nào? Tại sao các nấm mồ trong lòng đất có khắc ký hiệu, ám tự, hình vẽ mà trong Kim Tự Tháp lại trống trơn? Dĩ nhiên quan niệm thông thường không thể hiểu nổi, nếu chúng ta hiểu chiều đo thứ tư thì chúng ta sẽ không nhìn Kim Tự Tháp như một hình khối ba chiều.
Trích: Hành Trình Về Phương Đông

CHIÊM TINH HỌC VÀ ĐỜI NGƯỜI

Không thể hiểu chiêm tinh học nếu không tin luật Luân Hồi (Reincarnation). Con người chết và tái sinh trở lại trong nhiều kiếp. Định mệnh của ta theo dõi và ảnh hưởng lên đời sống của ta theo luật Nhân  quả (Karma – cause and effect). Nếu ta không tin con người chết đi và tái sanh lại để học hỏi, để tiến hoá, để trở nên một người toàn thiện, thì mọi sự đều là ngẫu nhiên hay sao?
Khi qua đời thể xác hư thối tan rã nhưng tính tình, dục vọng, ý chí vẫn còn nguyên cho đến khi ta tái sanh vào một kiếp sống mới thì những tính này sẽ trở nên cá tính (personality) của kiếp sau. Các hành tinh chỉ là tấm gương ghi nhận các nguyên nhân này và phản chiếu trở lại. Bất cứ một hành động nào cũng tạo nên một nguyên nhân dù xấu hay tốt, ví như ta ném một trái bóng lên không trung. Trước sau gì nó cũng rơi xuống vì trọng lượng và ảnh hưởng của sức hút trái đất, nhưng đến khi nào nó rơi xuống còn tuỳ sức ném của ta nặng nhẹ ra sao. Chiêm tinh học nghiên cứu các vũ trụ tuyến này để đoán được khi nào cái nguyên nhân trước sẽ trở lại.
Từ ngàn xưa, chiêm tinh học vẫn được coi là một khoa học quan trọng. Chiêm tinh gia chỉ đứng ở địa vị thứ hai, sau Giáo sĩ mà thôi. Đối tượng của chiêm tinh học là vũ trụ. Tiếc thay phần này đã bị thất truyền, chỉ còn phần nhỏ nói về sự liên hệ giữa con người với các bầu tinh tú, còn được lưu truyền đến nay và được xem là khoa bói toán. Khoa chiêm tinh có từ lúc nào không ai biết, nhưng hiền triết Bhrigu đã truyền dạy các môn đồ của ông vào khoảng 6000 năm trước. Nòng cốt của nó nằm trong bộ sách Brahma Chinta, do ông soạn ra. Bhrigu có bốn đệ tử. Người thứ nhất rất giỏi về khoa học đã đi sang Ba Tư (Iran) lập nghiệp, từ đó ngành chiêm tinh đi về hướng Tây và ảnh hưởng đến Hy Lạp và La Mã sau này. Người thứ hai rất giỏi về triết học đi về phương Đông, sang Trung Hoa truyền bá ngành này ở đây. Người thứ ba thích nghiên cứu những hiện tượng siêu hình đã lên Tuyết Sơn nhập thất và sau truyền môn này cho dân chúng Tây Tạng. Người thứ tư ở lại xứ Ấn, và làm đến chức quốc sư. Bộ sách Brahma Chinta được coi là quốc bảo cất trong cung điện. Sau này, các hoàng tử tranh cướp ngôi vua đã giành nhau bộ sách quý. Sau mấy chục năm chinh chiến, bộ sách được phân chia làm nhiều phần, mỗi ông Hoàng giữ một mảnh, và từ đó khoa chiêm tinh trở nên thất truyền. Các mảnh vụn này đã được các thầy bói sưu tầm, ghi chép lại để kiếm ăn, nhưng họ chỉ nắm một vài then chốt chứ không sao hiểu hết.
Sự giác ngộ tâm linh là một biến cố vô cùng quan trọng trong đời người, mà không ai có thể quên được vì từ đó, con người hoàn toàn thay đổi, trở nên một người mới. Chúng ta chỉ mới ở vào buổi bình minh của khoa học, nhưng mỗi khám phá mới, mỗi kiến thức mới, đều đem lại cho chúng ta một bằng chứng rằng, vũ trụ này là công trình của một đấng hoá công. Hãy lấy một thí dụ toán học cho dễ hiểu. Nếu ta bỏ vào túi 10 thẻ nhỏ, mỗi thẻ có ghi từ số 1 đến số 10, và tuần tự rút ra từng cái một. Sau khi rút xong ta lại bỏ thẻ vào túi, trộn đều và rút ra lần nữa. Làm sao ta có thể rút tuần tự từ số 1 đến số 10? Theo toán học, ta phải rút mười lần, mới có một lần rút được thẻ mang số 1. Phải rút 100 lần mới có một lần rút được số 1 và 2. Phải rút 1000 lần mới được số 1, 2, 3 liên tiếp. Nếu muốn rút theo thứ tự từ 1 đến 10, thì trường hợp đặc biệt này chỉ có thể xảy ra một lần trong mười tỷ lần. Nếu áp dụng toán học vào các điều kiện tạo đời sống ở quả đất này, thì ta thấy nguyên lý ngẫu nhiên không sao hội đủ các điều kiện cần thiết. Vậy thì ai đã tạo ra nó? Trái đất quay quanh trục của nó với vận tốc 1600 cây số một giờ ở giữa đường xích đạo. Nếu nó quay chậm 10 lần thì ngày sẽ dài gấp 10 và dĩ nhiên sức nóng của mặt trời cũng gia tăng gấp 10 lần. Thế thì cây cối, sinh vật đều bị thiêu sống hết. Nếu cái gì chống được sức nóng cũng chết lạnh vì đêm cũng dài ra gấp 10 và sức lạnh cũng tăng lên gấp 10 lần. Ai đã làm trái đất quay trong một điều kiện tốt đẹp như thế? Mặt trời là nguồn sống của quả đất. Mặt trời nóng khoảng 5500 độ bách phân. Quả địa cầu ở đúng một vị trí tốt đẹp không xa quá mà cũng không gần quá. Vừa vặn đủ để đón nhận sức nóng của mặt trời. Nếu sức nóng mặt trời gia tăng một chút, ta sẽ chết thiêu, và ngược lại nếu sức nóng mặt trời giảm đi một chút, ta sẽ chết rét. Tại sao trái đất nằm ở điều kiện thuận lợi như vậy? Trục trái đất nghiêng theo một toạ độ là 23 độ. Nếu trái đất đứng thẳng, không nghiêng theo bên nào thì sẽ không có thời tiết bốn mùa. Nước sẽ bốc hơi hết về hai cực và đóng thành băng hết. Mặt trăng là một vệ tinh của trái đất, điều khiển thuỷ triều biển cả. Nếu nó không cách xa trái đất 380.000 cây số mà xích lại gần hơn 80.000 cây số thì một cuộc hồng thuỷ sẽ xảy ra. Nước sẽ bị sức hút dâng lên ngập tất cả các lục địa mỗi ngày hai lần. Tóm lại tất cả mọi đời sống trên mặt địa cầu sẽ biến mất, nếu các điều kiện sai lệch đi một ly. Nếu nói rằng đời sống chỉ là một sự ngẫu nhiên thì trong tỷ tỷ lần may ra mới có một điều kiện tốt đẹp hoàn toàn để có được sự sống như thế.
Với khả năng sinh tồn của mọi vật, ta thấy sự hiện diện của tạo hoá rất chu đáo. Sự sống không có sức nặng hay bề đo mà mạnh mẽ làm sao! Ta hãy nhìn một rễ cây non nớt, mềm yếu, vậy mà nó có thể soi nứt một tảng đá cứng rắn. Sự sống chinh phục không khí, đất, nước. Nó thống trị mọi nguyên tố, nó bắt buộc vật chất tan rã rồi lại kết hợp thành các hình thể mới. Sự sống là nhà điêu khắc nặn thành những hình thể mới lạ, là hoạ sĩ vẽ những cảnh vật thiên nhiên tô điểm cho tạo hoá. Sự sống cũng là nhạc sĩ dạy chim hót thánh thót, dạy côn trùng ngân nga, là nhà hoá học chế các hương thơm, quả ngọt. Sự sống từ các loài thảo mộc thu hút thán khí biến thành dưỡng khí nuôi muôn loài. Hãy nhìn những giọt nguyên sinh chất (protoplasm) trong suốt gần như vô hình, mắt ta không thể nhìn thấy, mà nó di động nhờ hấp thụ sinh khí thái dương. Chính cái tế bào đơn độc này chứa mầm sống của muôn loài, và là cội nguồn của toàn sự sống theo khoa học thực nghiệm. Tự nó không tạo ra sự sống vậy thì sự sống ở đâu đã đến? Cá hồi (salmon) sinh ra ở nước ngọt, theo dòng nước ra biển và sống ở đây cho đến khi trưởng thành rồi lại trở về nguồn. Hãy nhìn nó lội ngược dòng về sinh quán, nó bơi một mạch đâu hề phân vân lưỡng lự. Nếu ta bắt nó đem đến một chỗ khác, nó vẫn trở lại nơi xưa. Ai đã dạy cho nó phân biệt một cách chắc chắn như vậy? Loài lươn biển cũng thế, chúng rời sinh quán từ các ao hồ, sông lạch khắp nơi trên thế giới để bắt đầu một cuộc du hành đến tận ngoài khơi quần đảo Bermuda. Muốn đến đây, một con lươn châu Âu phải đi gần 4000 cây số, lươn châu Á phải đi xa hơn, có khi gần 8000 cây số. Chỉ tại đây chúng mới sinh sản và chết. Các con lươn con sinh ra tại đây không biết gì về sinh quán mà vẫn trở về quê hương xa xôi của cha mẹ chúng nó. Biết tìm về một cái lạch ở Pháp hay một cái hồ ở Nam Dương. Giống nào về nhà giống đó, một con lươn Pháp không bao giờ bị bắt ở Ấn Độ và một con lươn giống Thái Lan không bao giờ đi lạc sang châu Phi. Ai đã ban cho loài lươn nguồn cảm kích phân biệt như thế? Ai đã hướng dẫn những con lươn bé bỏng trên đường phiêu du ngàn dặm như vậy? Chắc chắn không thể do ngẫu nhiên!
Mọi sinh vật đều có đặc điểm di truyền khác nhau. Yếu tố này cho ta thấy rõ sự sống đã được trù định từ trước vì một cái cây sẽ tạo ra một cái cây, chứ không phải con vật. Từ các loại sinh vật bé nhỏ như con kiến đến các loài sinh vật to lớn như cá voi đều chịu sự chi phối của yếu tố này. Điều này chắc chắn không phải ai nghĩ ra hay ngẫu nhiên. Chỉ có đấng sáng tạo mới có đủ quyền năng làm các việc đó. Khắp nơi trong vũ trụ đâu đâu cũng có một sự quân bình tuyệt đối, không loài nào lấn át loài nào. Nhìn loài côn trùng, chúng sinh sản rất nhanh mà sao không chiếm quả đất? Ấy là vì chúng không có bộ phổi như loài có vú (mammal). Chúng thở bằng khí quản (trachea) và khi chúng lột xác lớn lên, khí quản không lớn theo nên thân thể chúng bị giới hạn trong khuôn khổ nhất định. Con người hơn loài thú ở điểm lý trí. Bản năng con thú tuy kỳ diệu, nhưng bị giới hạn. Bộ óc con người tuyệt vời ở chỗ nó có thể vượt xa tầm giới hạn của nó. Muốn quan niệm sự hiện hữu của thượng đế, cần phải có một năng khiếu mà chỉ loài người mới có. Ta có thể gọi nó là trí tưởng tượng cũng được, nhưng nhờ nó mà con người mới thu nhận các sự kiện vô hình, vô ảnh. Trí tưởng tượng mở cho ta một chân trời bao la và nhờ thế ta mới ý thức một thực tại tuyệt diệu rằng Thượng Đế là tất cả, ngài ở khắp mọi nơi, nhưng không ở đâu ngài hiện rõ như trong tâm hồn chúng ta. Con người nên ý thức sự bé nhỏ của mình trước vũ trụ bao la vì khoa học xây dựng trên căn bản của giác quan vốn rất giới hạn, sao có thể cảm xúc vũ trụ được! Nếu ta cứ khăng khăng cho rằng những cái gì không nghe được, không nhìn được, đều không hiện hữu thì thật là một sai lầm tai hại. Có biết bao nhiêu sự kiện xảy ra mà giác quan giới hạn không thể cảm nhận, cho đến một ngày nào họ khai mở các giác quan khác…
Khi sinh ra đời, mỗi cá nhân đều mang sẵn một tài sản khác nhau, đó là Nghiệp Báo. Tài sản này có thể tốt đẹp do các nguyên nhân hợp với Thiên ý hoặc xấu xa bởi các lỗi lầm trong tiền kiếp. Tất cả nguyên nhân này đều chứa chấp trong Tàng thức hoặc A-lại-da-thức (alaya-vijnana), và trở nên một động lực chi phối đời ta. Động lực này được phân phối bởi các mãnh lực trong vũ trụ một cách vô cùng phức tạp, và biến thành một thứ gọi là Vũ trụ tuyến (cosmic rays). Những vũ trụ tuyến này không ồ ạt ảnh hưởng đến ta ngay, mà tuỳ theo sự thay đổi của tinh tú để phản chiếu xuống trần gian. Điều này rất hợp lý vì trải qua vô lượng kiếp sống, con người đã làm biết bao điều xấu xa, đâu thể nào trong vài ba kiếp mà trả hết được. Đó cũng là lý do con người cứ trầm luân trong luân hồi sinh tử. Chiêm tinh học nghiên cứu sự xê dịch, vận hành của tinh tú mà đoán biết được các ảnh hưởng đến con người trong kiếp sống này. Nhờ nghiên cứu chiêm tinh mà người ta hiểu rõ rằng không hề có một Đấng Thần Linh thưởng phạt hay kiểm soát các hành động của ta. Tất cả chỉ là hậu quả của những gì do ta tạo nên và phải gánh chịu. 
Chúng ta vẫn còn quan niệm rằng Thượng Đế là một ông già ngồi trên cao nắm quyền sinh sát, định đoạt số phận con người - đó là một quan niệm rất ấu trĩ. Thượng Đế cao cả hơn nhiều, ngài sáng tạo và đặt tất cả vào một trật tự trong vũ trụ. Làm gì có việc ngài định đoạt số phận từng người như lâu nay chúng ta nghĩ. Tất cả diễn tiến theo luật vũ trụ, nhân nào quả nấy, một lực nào cũng có một phản lực đi kèm, đó là khoa vật lý chứ đâu phải gì xa lạ. Làm gì có việc số mệnh đã định sẵn, nếu thế ta cứ tiêu cực, bất động mặc cho số phận run rủi hay sao?
Chiêm tinh học là một khoa học thực tiễn và tiến bộ, không thể có vấn đề mê tín. Lá số tử vi không có nghĩa là con người chỉ là nô lệ của quá khứ mà chỉ cho ta thấy rõ sự tuần hoàn của vũ trụ mà trong đó con người có thể thay đổi tính mạng. Chiêm tinh học nghiên cứu phản ứng của con người dưới ảnh hưởng tinh tú. Các tinh tú chỉ là những khí cụ trung gian biểu lộ một cách trung thực các tác động quân bình của nghiệp quả gây nên trong quá khứ. Mỗi người sinh ra đời vào một ngày giờ mà ảnh hưởng của tinh tú hoà hợp với nghiệp quả cá nhân của ta. Các vũ trụ tuyến được tinh tú phản chiếu xuống làm mạch máu di chuyển, tế bào thay đổi, dĩ nhiên ảnh hưởng đến cuộc đời con người. Mặc dù con người không thể thay đổi việc đã xảy ra trong quá khứ, nhưng nhờ ý chí tự do, ta có thể vượt khỏi tầm ảnh hưởng này và chiến thắng ảnh hưởng của tinh tú. Thí dụ như có người đáng lý theo số mạng thì phải chết trong cuộc chiến. Nhưng vì một mầm thiện nẩy sinh, thấy chiến tranh quá ư tàn khốc, người đó động lòng trắc ẩn mang tài sản ra giúp đỡ rất nhiều nạn nhân chiến cuộc. Dĩ nhiên, khi đó người này không hề biết gì về số mạng của mình, nhưng hành vi bác ái này đã tạo một phản lực mạnh mẽ thúc đẩy các vũ trụ tuyến xê dịch sang một bên và nhờ thế người này thoát chết. Số mạng của người này hoàn toàn thay đổi từ đó. Chúng ta hiểu rằng hoán cải số mạng không có nghĩa việc quá khứ sẽ bị xoá bỏ, nhưng đáng lý một biến cố lớn sẽ xảy ra trong kiếp này, lại không xảy ra. Khi ta phát tâm làm một việc hợp với Thiên ý thì một ảnh hưởng tinh tú bỗng chói sáng và các từ điện mạnh mẽ đẩy ngược luồng vũ trụ tuyến sang hướng khác. Do đó, con người có thể cải số mệnh dễ dàng, nếu biết làm các việc tốt lành, đẹp đẽ. Dĩ nhiên, ảnh hưởng xấu không mất đi, nhưng sẽ tiềm ẩn, chờ một cơ hội khác sẽ phát hiện lại. Nói một cách khoa học thì đời người có thể ví như một phương trình toán học, A x B bằng C x A và B là nguyên nhân và C là hậu quả, nhưng nếu ta thêm vào đó một nguyên nhân X thì A x B x X sẽ không thể bằng C nữa, vì đã có thêm nguyên tố X. Đó là nguyên lý hoán cải số mạng. Đời người thực ra đã ghi khắc trên tinh tú nhưng các tinh tú khi sáng, khi mờ, và sự mờ tỏ do chính ta quyết định. Khi ta có các hành vi xấu xa nó tạo ra những động lực xấu và thu hút các điều xấu ghi khắc trên tinh tú, phản chiếu xuống mau lẹ hơn. Dĩ nhiên hậu quả không thể lường. Trái lại, nếu ta ý thức điều này, phát tâm làm việc hữu ích tự nhiên phát sinh các động lực tốt đánh bật các ảnh hưởng xấu sang một bên. Nhờ nghiên cứu chiêm tinh học một cách đứng đắn, khoa học, con người sẽ hiểu biết mệnh Trời, biết tin tưởng ở mình, và sống cuộc đời thoải mái, không bi quan, không lạc quan, an vui tự tại. Như thế người đi trên đường Đạo, sẽ gặp gì khi đã có nghiệp quả xấu? Nghiệp quả xấu ví như một án treo, bất động, nhưng không ai có thể tránh được nó. Đối với những người đã vào cửa Đạo, đã hiểu biết thì họ lại cầu xin được trả quả cho lẹ. Tuy họ không gây các nhân xấu nữa, nhưng họ đủ can đảm để chịu đựng nghiệp quả. Có thế họ mới rút ngắn thời gian trong sinh tử luân hồi. Hiểu biết mệnh Trời để sống thoải mái chính là mục đích của khoa chiêm tinh chân chính.  
Bộ sách Brahma Chinta, huyền môn có hai phần: Công truyền (exoteric) và bí truyền (esoteric). Loại bí truyền chỉ được dạy cho các đệ tử đã bước vào cửa Đạo, đã được tuyển chọn rất kỹ. Hiền triết Bhrigu chỉ truyền cho 4 đệ tử bộ sách này. Một đoạn trong Bộ sách này chép: “ Vạn vật trong vũ trụ dù ở cõi vô hình hay hữu hình đều được sắp hạng và phân loại theo quy mô của số 7. Tất cả mọi hình thức sinh hoạt trong dãy hành tinh hiện tại đều thuộc một trong 7 cung. Mỗi cung có 7 phân bộ hay 49 nhóm . Toàn thể Thái dương hệ của chúng ta đều là sự biểu lộ của Thượng Đế, mỗi phần tử trong đó đều là một phần của ngài. Ngoài ra có 7 vị tinh quân (logo) mỗi vị kiểm soát một cung. Thật ra các vị này chỉ là những trung tâm thần lực, những con đường vận hà để thần lực Thượng Đế ban rãi ra. Con người có ba thể chính là thể xác, thể vía và thể trí tương ứng với ba cõi giới Hạ giới ,Trung giới, và Thượng giới. Thượng Đế cũng thế, tất cả vật chất trong Hạ giới hợp thân thể xác của ngài. Tất cả vật chất cõi Trung giới hợp thành vía của ngài, và tất cả vật chất cõi Thượng giới hợp thành thể trí của ngài. Tóm lại, tât cả đều là thành phần của thượng đế từ hạt bụi đến các dãy thiên hà. Mọi nguyên tử vật chất cấu tạo nên chúng ta đều là một phần của thượng đế xuyên qua 7 cung - khi qua đây nó bị thay đổi ít nhiều, tuỳ ảnh hưởng các cung. Khoa chiêm tinh có thể phân biệt người nào chịu ảnh hưởng cung nào tuỳ số lượng nguyên tử cấu tạo xuất phát từ cung liên hệ”
Nói theo danh từ Thiên chúa giáo thì 7 vị tinh quân này đã xuất hiện trong linh ảnh (vision) của Thánh Jean. Sách khải huyền 4.5 nói rõ, “Có 7 ngọn đèn thắp trước ngài, đó là 7 vị đại thiên thần của chúa trời”. Lúc khởi thuỷ, mọi người chúng ta đều là thành phần của thượng đế, nghĩa là cùng bắt nguồn từ một nơi. Sau đó, chúng ta tách rời ra, xuyên qua 7 con đường vận hà này. 7 con đưòng biểu lộ 7 đức tính của thượng đế, qua 7 vị tinh quân. Vị thứ nhất là thiên thần Michael (sức mạnh), liên hệ đến hoả tinh. Vị thứ hai là Gabriel (toàn tri) liên quan đến thuỷ tinh. Vị thứ ba là Raphael (quyền năng) liên quan đến thái dương. Vị thứ tư là Uriel (ánh sáng) liên quan đến mặt trăng. Vị thứ năm là Zakiel (hảo ý) liên quan đến mộc tinh, còn hai vị kia là Jophiel và Samuel. Khoa học thực nghiệm tin rằng các hành tinh đều là sự kết hợp ngẫu nhiên của vật chất. Nếu là ngẫu nhiên tại sao chúng nằm ở các vị trí nhất định trong vũ trụ, và di chuyển theo một quỹ đạo cố định? Mọi vật dường như tuân theo một định luật thiên nhiên, nhưng đằng sau định luật đó luôn luôn có một sức mạnh thiêng liêng cai quản. Điều này có thể được diễn tả khác đi tuỳ theo quan niệm tôn giáo, văn hoá; nhưng sự thật vẫn là một. Muốn hiểu khoa chiêm tinh phải đi ngược về nguồn cội. Con người từ một chốn nguyên thuỷ ví như nước cùng một nguồn chảy theo bảy dòng suối khác nhau để ra biển. Mỗi dòng suối sẽ mang một tính chất khác nhau, do đó nước trong suối cũng chịu ảnh hưởng ít nhiều. 
Loài người có thể phân biệt ra 7 đức tính rõ rệt tuỳ theo con đường vận hà mà họ trải qua. Chiêm tinh nghiên cứu con người và ảnh hưởng hành tinh đến các tính nết nhất định. Cũng như khoa Sinh lý học phân biệt con người qua tính chất nồng nhiệt, lãnh đạm, bạch huyết chất hay đa huyết chất. Thực ra đó chỉ là các phương pháp khác nhau để trình bày tính chất con người. Dĩ nhiên không dễ gì tìm ra cung của mỗi người vì y đã đi sâu trong luân hồi sinh tử, tạo các nghiệp quả phức tạp, và những nguyên nhân này chế ngự, ảnh hưởng đến tính tình y rất nhiều. Chỉ với sự khai mở các giác quan như Thần nhãn hay có một kinh nghiệm sâu xa về huyền môn, ta mới có thể biết rõ họ thuộc cung nào. Nếu một người biết rõ cung của mình và tiếp tục trau dồi bản tính sẵn có, thì y sẽ tiến bộ rất nhanh, vì khí cụ hữu hiệu nhất là phương pháp thuộc về cung liên hệ. Thí dụ như người có khiếu về âm nhạc lại cứ học toán. Không phải y sẽ không tiến bộ gì, nhưng nếu đi về âm nhạc y sẽ tiến nhanh hơn vì hợp với khả năng hơn. Sự hiểu biết mình là ai, có những khả năng tiềm ẩn nào sẽ giúp ta định hướng đi cho chính xác. Đó mới là mục đích của khoa chiêm tinh. Đa số con người hành động không ý thức, chịu ảnh hưởng ngoại cảnh, nên luôn bất mãn, không thoải mái. Họ tự đóng kịch với chính mình, hoặc sống theo một lề lối khuôn khổ không thích hợp. Trong Kinh thánh có câu, “Nếu các ngươi không hồn nhiên như trẻ con, các ngươi không thể vào nước thiên đàng”. Điều này khuyên ta nên sống thật với chính mình. Chiêm tinh học có thể giúp ta biết ta là ai, thích hợp với những công việc gì? Sự nghiên cứu chiêm tinh như thế mới gọi là đứng đắn chứ không phải chỉ xem quá khứ, vị lai, may rủi. Làm sao con người có thể biết họ thích hợp với cung nào?  Một nhà chiêm tinh giỏi có thể lấy lá số tử vi để xem cá nhân liên hệ với cung nào, điều này đòi hỏi rất nhiều thời giờ, kinh nghiệm. Một phương pháp khác là hãy nhìn hành động mỗi người. Người thuộc cung 1 sẽ đạt đến mục đích bằng sức mạnh ý chí. Người thuộc cung 2, phân tích kỹ lưỡng vấn đề để lựa chọn phương pháp nào hữu hiệu nhất. Người thuộc cung 3 nghiên cứu rất kỹ về thời gian, giờ khắc thuận lợi nhất v..v… Một thí dụ khác như trong việc chữa bệnh, người cung 2 sẽ tìm hiểu nguyên nhân và phương pháp nào thích hợp nhất để chữa bệnh, khi người ở cung 3 sẽ nghiên cứu thời gian nào thuận lợi để chữa. Người ở cung 6 sẽ tìm cách chữa bệnh bằng đức tin. Người thuộc cung 7 sẽ chữa bằng các nghi lễ, cúng tế, v..v.. Tuy nhiên, cách tốt hơn hết là tự mình, xét lấy mình. Hãy dẹp bỏ những điều mình vẫn khoác lên bản ngã như danh vọng, địa vị, ham muốn. Hãy thành thật với chính mình thì ta có thể xem được mình thuộc về cung nào. Nếu ta là người có ý chí mạnh mẽ, cương quyết làm việc trong tinh thần khoa học thì có lẽ ta ở cung 1. Nếu là người khôn khéo, thích lý luận và làm việc một cách hiệu quả thì có lẽ ở cung 2. Nếu là người nhạy cảm, thích hoạt động xã hội, từ thiện thì có lẽ ta thuộc cung 5. Nếu là người có đức tin mạnh mẽ, cẩn thận, có thể ta thuộc cung 7, v..v…. Cái vật chất sơ khai nguyên thuỷ bắt đầu tiến hoá qua 7 con đường vận hà hay 7 đức tính quan trọng. Chỉ khi nào con người phát triển toàn vẹn cả 7 đức tính này sẽ trở nên toàn thiện. Dĩ nhiên, chúng ta đều bất toàn dù mỗi cá nhân đã nảy nở các đức tính cần thiết căn bản. Người Tây Âu đã khai mở rất nhiều về khả năng suy luận, khoa học, nhưng thiếu khả năng sùng tín, bác ái. Vì lý trí nảy nở nhiều hơn tình cảm nên họ có vẻ thiếu thiện cảm, lạnh lùng, thích chống báng thay vì dung hoà. Trong khi đó, người Châu Á phát triển mạnh mẽ về sự sùng tín, bác ái, nhưng thiếu khả năng suy luận, để tình cảm chi phối nên họ có vẻ chịu đựng, nhượng bộ, khoan dung, dễ dãi. Cả hai đều không quân bình tuyệt đối, nên trong tương lai sẽ có các biến chuyển mạnh, xáo trộn để cả hai dân tộc có dịp học hỏi, hoà hợp với nhau. 
Trong các sách vở bí truyền của các tôn giáo không hề thấy có sự khác biệt giữa các giáo lý, nếu không nói là giống hệt nhau. Tiếc thay, con người chỉ thích đi tìm sự khác biệt để chỉ trích, phê bình và càng ngày càng đi xa đến chỗ vô minh cùng cực. Mỗi quốc gia có phong tục, tập quán riêng biệt. Mỗi thời buổi đều có các thay đổi, giá trị khác nhau. Do đó, một chân lý cũng có thể được giảng dạy bằng các phương pháp khác nhau. Phương pháp, ngôn ngữ có thể khác, nhưng chân lý vẫn là một cũng như thượng đế có 7 con đường vận hà khác nhau qua bảy cung. Nguyên tử mỗi cung có các rung động khác nhau, có màu sắc khác nhau, tính chất khác nhau, nhưng nó đều là nguyên tử xuất phát từ Thượng Đế. Trong 7 vị tinh quân có những biến đổi diễn ra từng thời kỳ giống như sự tuần hoàn của hơi thở trong bộ máy hô hấp, hay sự vận động của quả tim. Các sự biến đổi này diễn ra vô cùng phức tạp, dưới thiên hình vạn trạng. Vì lẽ thể vía con người được cấu tạo cùng một nguyên tử với thể vía của các vị tinh quân, nên khi vị tinh quân thay đổi, tự nhiên mọi người trên thế gian cũng ít nhiều ảnh hưởng theo. Nói một cách khác, khi vị tinh quân cai quản một cung thay đổi thì những người đã đi qua cung đó, nguyên tử cấu tạo có chứa đựng nhiều tỷ lệ của cung đó sẽ thay đổi theo. Trong lịch trình tiến hoá, đã có những sự thay đổi trong đầu óc loài người, từng thời kỳ và do đó, văn minh nhân loại cũng đổi thay. Mỗi chu kỳ kéo dài khoảng 100 năm, nhưng cứ 25 năm cuối lại có các biến chuyển gây ảnh hưởng cho chu kỳ kế tiếp. Thật ra chu kỳ không hoàn toàn trùng hợp từng năm, từng tháng, vì niên lịch thông thường không chính xác. Khoa chiêm tinh sử dụng một thứ lịch khác theo sự vận chuyển của các tinh tú. Tuy nhiên, để giản dị hoá vấn đề này ta có thể nói rằng cứ 25 năm cuối của mỗi thế kỷ là buổi giao thời có nhiều sự thay đổi mãnh liệt. Chẳng hạn, năm 1275, Roger Bacon phát động phong trào phục hưng văn hoá, rồi suốt 100 năm sau, toàn thể Âu châu đều thay đổi. Năm 1375, Chirstian Rosenkreuz phổ biến nền văn hoá này khắp từng lớp dân chúng, đưa Âu châu thoát khỏi nền tảng hắc ám của thời kỳ Trung cổ. Năm 1275 và 1375 chả là 25 năm chót của thế kỷ 13 và 14 hay sao?  Francis Bacon và cao trào nghiên cứu khoa học năm 1578, sử dụng Anh ngữ thay vì Latin để phổ biến kiến thức khoa học. Có phải những việc này đã đem khoa học vào xã hội để cải thiện cuộc sống hay không? Việc này xảy ra vào 25 năm cuối của thế kỷ 15 và 16. Phải phục hưng văn hoá, đưa Âu châu khỏi các thành kiến bảo thủ đã, rồi cải cách, phát triển khoa học để mọi người biết suy luận sau đó, mới thay đổi xã hội được chứ. Văn hoá đi trước phổ biến tư tưởng để dọn đường cho các thay đổi chính trị, xã hội về sau. Năm 1675, các Hội Kín bắt đầu mọc lên, kêu gọi san bằng giai cấp, dẹp tan bất công xã hội, gây nên bởi chế độ Bảo Hoàng. Năm l789, cuộc cách mạng Pháp đã bùng nổ, và thay đổi hẳn lịch sử Âu châu. Hai biến cố này đều xảy ra trong vòng 25 năm cuối của thế kỷ 17 và 18. Năm 1875 đánh dấu một bước tiến quan trọng, đó là sự phát triển khoa học văn minh cơ giới cùng thuyết “Tiến hoá” của Darwin, và phong trào Thiên chúa giáo tự do. Từ đây bắt đầu một cuộc tranh chấp giữa tinh thần và vật chất. Có hai mãnh lực rất mạnh phát xuất từ hai bầu tinh tú đối cực, gây nên phong trào Duy tâm và Duy vật. Đến khoảng 25 năm cuối, từ 1975 trở đi thì phong trào Duy tâm phát triển mạnh mẽ và được phổ biến sâu rộng để thúc đẩy sự tiến hoá tâm linh. Cuối thế kỷ 20, hiện tượng nghiên cứu các giáo lý bí truyền đã bắt đầu. Trước khi một sự phổ thông Bí giáo được thực hiện phải có những hạt giống gieo sẵn và nẩy mầm. Có hai loại người trên thế gian: một loại đã thấy ánh sáng rực rỡ nơi cuối chân trời và định hướng để tiến tới đó. Dĩ nhiên, họ sẽ phải chiến đấu cam go với các cám dỗ, các hoàn cảnh bất lợi xảy ra chung quanh. Nhưng ở họ, hy vọng luôn luôn sáng rỡ. Hạng thứ hai, không cảm xúc được các tư tưởng thanh cao, không tin tưởng những điều cao thượng. Họ là những người lạc lõng, đáng thương vì họ sẽ phải học các bài học hết sức đau khổ cho đến khi họ hiểu biết và quay đầu về phía ánh sáng. Điều này đã và đang xảy ra. 

Mọi vật trong vũ trụ đều quân bình tuyệt đối, không dư, không thiếu, từ hạt bụi bé nhỏ đến những dãy thiên hà vĩ đại. Đời người quá ngắn, và luôn bị lôi cuốn vào sinh hoạt quay cuồng. Đâu mấy ai ý thức được sự phung phí hôm nay, dọn đường cho sự đau khổ ngày mai. Tất cả chỉ là những ảo ảnh chập chờn, thế mà người ta cứ coi như thật. Nếu biết thức tỉnh quan sát, ta có thể học hỏi biết bao điều hay.  
Con người cần đặt cho mình một câu hỏi tương tự. Hãy quan sát lòng mình một cách thành thật xem mình muốn gì? Chúng ta muốn bình an hay kích động? Phải chăng chúng ta đều náo nức muốn cái gì? Mỗi buổi sáng, chúng ta vội vã cầm lấy tờ báo để tìm các tin tức sôi nổi nhất. Nếu không có tin gì về chiến tranh, thiên tai, xáo trộn, khó khăn kinh tế thì chúng ta vất tờ báo xuống đất, và than rằng chả có gì đáng xem. Chúng ta muốn sống yên ổn, không thích xáo trộn, nhưng rất thích thú nghe nói về các sự xáo trộn của kẻ khác. Chúng ta dành nhiều giờ để bàn cãi sôi nổi về người này, người nọ, chê bai ông này, diễu cợt bà kia. Phải chăng chúng ta vẫn làm thế? Có bao giờ chúng ta đặt câu hỏi, tại sao chúng ta lại làm thế không? Lòng ta còn ham tiền bạc, danh vọng, địa vị, sức khoẻ, và chỉ cầu bình an cho chính mình thôi, nên chẳng bao giờ thoả mãn. Nếu ai có hỏi thì ta cũng sẽ chối quanh như đại đế Alexander chỉ xin một giấc ngủ bình an mà thôi. Giấc ngủ bình an nào có khó, nào xa xôi diệu vợi, tốn công nhọc sức mới có. Làm sao ta có thể lao đầu vào vật chất phù du, xây dựng danh vọng địa vị, thoả mãn cái phàm ngã hữu hình hoại đồng thời tìm sự bình an, yên tĩnh? Chính các điều trên đã phá vỡ sự yên tĩnh sung mãn của nội tâm ta. Phiền não là do chính ta tạo nên, chứ đâu phải hoàn cảnh?