Trong phần tiếp của bài viết, tôi xin được đưa ra một số phương cách chữa bệnh của các vị thiền sư và phương cách chữa bệnh của cụ Trưởng Cần để bạn đọc tham khảo.
Tất nhiên, do duyên nghiệp và căn cơ khác biệt của mỗi người nên trong phương cách chữa bệnh không thể giống nhau một cách hoàn toàn.
Chữa bệnh bằng nước lạnh…
Ấn Quang đại sư, một vị cao tăng thời cận đại ở Trung Quốc, tu hành tinh tấn theo pháp môn Tịnh độ thường tụng Kinh kiêm trì chú Đại Bi.
Đại sư thường gia trì Chú Đại Bi vào nước, gạo hoặc tro sạch để cứu những chứng bệnh mà các vị thầy thuốc khác đều bó tay, hiệu nghiệm lạ lùng.
Có một lần, nơi lầu Tàng Kinh của chùa phát hiện ra vô số mối trắng, đại sư ở trong thất, nghe nói, liền trì Chú vào nước bảo rưới lên loài mối, sau đó tự nhiên chúng kéo nhau đi mất.
Qua phương các chữa bệnh của Ấn Quang đại sư ta thấy có một sự khá tương đồng với phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần. Trong câu chuyện kể của nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải có viết:
“Vậy thì cụ chữa như thế nào? Cụ lấy ra một miếng giấy, cụ bảo người bệnh đốt miếng giấy ấy trên một chậu nước rồi lấy nước ấy rửa chỗ đau của cơ thể.
Qua phương các chữa bệnh của Ấn Quang đại sư ta thấy có một sự khá tương đồng với phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần. Trong câu chuyện kể của nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải có viết:
“Vậy thì cụ chữa như thế nào? Cụ lấy ra một miếng giấy, cụ bảo người bệnh đốt miếng giấy ấy trên một chậu nước rồi lấy nước ấy rửa chỗ đau của cơ thể.
Rõ ràng khi thấy hiện tượng đó thì người nào cũng thấy đó là thần bí mà người ta có thể gọi là mê tín dị đoan, thế nhưng khi tôi chụp ảnh người bệnh ấy khi chưa chữa thì đầy những vẩy nến trên cơ thể và sau khi rửa cái nước đó thì sau hai tuần lề nó đã bớt đi rất nhiều.
Trước đó người bệnh đã đi chữa ở nhiều nơi nhưng không khỏi”….
Trường hợp khác: “Cụ nói với một người ngồi gần đấy đưa cho cụ cái khay trong đó có những miếng giấy. Cụ cầm miếng giấy tích năng lượng vào đó rồi cụ bảo đốt đi. Một người cầm miếng giấy đó đốt trên cốc nước rồi tôi uống cái cốc nước đó”.
Trong bài viết này tôi sử dụng khá nhiều những lời thuyết giảng của Hoà Thượng Tuyên Hoá. HT.Tuyên Hoá là một vị cao tăng đắc đạo người Trung Quốc đã chứng ngũ thông, là vị tăng sĩ diễn giải Chú Đại Bi gần với yếu nghĩa kinh và là người rất nổi tiếng trong việc bắt Ấn, kiết Ấn, trì Chú chữa bệnh.
Khi nói về việc dùng nước lạnh chữa bệnh, HT.Tuyên Hoá chỉ phương cách như sau: “Các vị xuất gia khi gặp người bệnh, trì Chú này vào trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể được khỏi bệnh.
Trường hợp khác: “Cụ nói với một người ngồi gần đấy đưa cho cụ cái khay trong đó có những miếng giấy. Cụ cầm miếng giấy tích năng lượng vào đó rồi cụ bảo đốt đi. Một người cầm miếng giấy đó đốt trên cốc nước rồi tôi uống cái cốc nước đó”.
Trong bài viết này tôi sử dụng khá nhiều những lời thuyết giảng của Hoà Thượng Tuyên Hoá. HT.Tuyên Hoá là một vị cao tăng đắc đạo người Trung Quốc đã chứng ngũ thông, là vị tăng sĩ diễn giải Chú Đại Bi gần với yếu nghĩa kinh và là người rất nổi tiếng trong việc bắt Ấn, kiết Ấn, trì Chú chữa bệnh.
Khi nói về việc dùng nước lạnh chữa bệnh, HT.Tuyên Hoá chỉ phương cách như sau: “Các vị xuất gia khi gặp người bệnh, trì Chú này vào trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể được khỏi bệnh.
Để ly nước trì chú Đại Bi có được năng lực như vậy, quý vị không cần phải trì tụng toàn văn bài chú này, mà chỉ cần trì tụng câu Hô lô hô lô hê rị năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba lần búng vào phía trên ly nước. Rồi trao cho người bệnh uống sẽ được khỏi hẳn”
Theo sự giải thích của HT.Tuyên Hoá thì câu Chú Hô lô hô lô hê ri (trong Chú Đại Bi) chính là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, cũng chính là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng giải thoát cho chúng sinh khỏi những tai ương bệnh hoạn.
Theo sự giải thích của HT.Tuyên Hoá thì câu Chú Hô lô hô lô hê ri (trong Chú Đại Bi) chính là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, cũng chính là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng giải thoát cho chúng sinh khỏi những tai ương bệnh hoạn.
Với phương pháp chữa bệnh theo kiểu trì Chú , Kinh Bổn Nguyện Dược Sư Lưu Ly Quang có đoạn : “Ông Mạn Thù này : Thấy ai nam, nữ nếu có bệnh khổ thì nên nhất tâm, vì người bệnh ấy, tắm gội sức miệng sạch rồi tụng chú 108 lượt vào thức ăn, hoặc vào vị thuốc, hoặc vào nước lọc, không có vi trùng rồi đem cho uống thì bệnh khổ gì cũng đều tiêu hết”.
Theo Mật tông giáo thì, Thủ Ấn là một dạng ngôn ngữ đặc thù của bàn tay do nguyện lực và nhân duyên của chư Phật, Bồ Tát hay những vị đã giác ngộ phát nguyện.
Theo Mật tông giáo thì, Thủ Ấn là một dạng ngôn ngữ đặc thù của bàn tay do nguyện lực và nhân duyên của chư Phật, Bồ Tát hay những vị đã giác ngộ phát nguyện.
Hành giả khi kết ấn tương đồng với thủ ấn của một vị Phật, Bồ Tát hay một vị nào khác thì sẽ sản sinh ra một năng lượng tương ứng hòa nhập vào thân tâm hành giả như sự cảm nhận của chính đức Phật, Bồ Tát đã cảm nhận vậỵ.
Phật, Bồ tát thể hiện phương tiện độ sinh của Ngài bằng vào uy lực gia trì. Gia trì về ba phương diện, mà thuật ngữ gọi là “Tam mật du-già”, tương xứng theo ba hành nghiệp của một chúng sinh: thân, miệng và ý.
Sự gia trì, tức uy lực hỗ trợ của Phật, được thể hiện nơi thân của một chúng sinh qua các tư thế ngồi và các thủ ấn, nghĩa là các ngón tay của hai bàn tay giao nhau trong một tư thế nào đó đã quy định.
Gia trì nơi miệng được thể hiện qua sự tụng niệm các chân ngôn. Ý mật gia trì nhờ sự quán tưởng về hình tướng Phật, hay các văn tự theo lối viết Brahmì, mà trong Phật giáo gọi là tự mẫu tất-đàm…
Gia trì nơi miệng được thể hiện qua sự tụng niệm các chân ngôn. Ý mật gia trì nhờ sự quán tưởng về hình tướng Phật, hay các văn tự theo lối viết Brahmì, mà trong Phật giáo gọi là tự mẫu tất-đàm…
Chữa bệnh bằng việc viết một nội dung hay ký tự vào một tờ giấy
Hoà Thượng Tuyên Hoá cũng kể rằng, ở Trung Quốc nhiều người đều biết có một vị Tiên nhân, biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn” Chính là Tát bà tát bà trong Chú Đại Bi.
Khi luyện công phu tu tập thành tựu rồi, nếu có người vừa mới chết hoặc sắp chết, quý vị chỉ cần trì ấn này vào một tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hay hãy tha cho anh ta trở về dương gian”.
Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại.
Vì sao vậy? Vì quí vị đã có được Bảo ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống lại.
Với Bảo ấn, quí vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là ‘Nhất thiết lợi lạc’.
Việc chữa bệnh bằng việc trì ấn vào một tờ giấy với một nội dung hoặc một ký tự nhất định rồi đốt đi theo phương cách trên ta thấy không khác nhiều so với phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần.
Hầu hết, những bệnh nhân được cụ chữa đều theo phương pháp này. Với phương cách này cụ có thể chữa được bệnh cho nhiều bệnh nhân ở rất xa ( Đức , Tiệp, Canada…) mà không cần bất kỳ một loại thuốc nào hay một trường năng lượng nào.
Có rất nhiều bệnh nhân được cụ chữa theo phương pháp này. Bài viết có hạn, tôi xin được trích dẫn một số trường hợp về phương cách chữa bệnh này của cụ.
“Tôi có lên thưa lại với cụ thì cụ lại cho một mảnh giấy mang về, cụ dặn để trong người cho cô ấy yên tâm,cho thần kinh ổn định.
- Thưa ông, xin ông cho biết mảnh giấy ấy như thế nào?
- Mảnh giấy đó chỉ bằng cái bao diêm thôi, cụ viết một chữ vào đấy, sau đó cứ mỗi một tuần là tôi lên xin cụ, khoảng 4 tháng sau thì nhà tôi đã có thể tự lên trên cụ một mình và khoảng gần một năm thì nhà tôi khỏi hẳn."
Trường hợp khác: “Tôi lên cụ, cụ cho mảnh giấy đề chữ sót rau, thế là hôm sau cháu khỏi, đến bệnh viện cũng phải ngạc nhiên. Cháu nội tôi bị chàm, cụ cho miếng giấy đặt lên trán, thế là khỏi. Đúng là một sự kỳ lạ….”.
Trường hợp khác: “Tôi lên cụ, cụ cho mảnh giấy đề chữ sót rau, thế là hôm sau cháu khỏi, đến bệnh viện cũng phải ngạc nhiên. Cháu nội tôi bị chàm, cụ cho miếng giấy đặt lên trán, thế là khỏi. Đúng là một sự kỳ lạ….”.
Qua lời kể của các bệnh nhân được cụ chữa thì họ chỉ nói là cụ viết một ký hiệu nào đó trên một tờ giấy nhỏ, sau đó đưa cho người bệnh đem về đốt hoặc dán lên chỗ đau, sau một thời gian bệnh nhân khỏi bệnh.
Trước khi cụ đưa tờ giấy đó, sau khi người bệnh mang về, cụ làm gì không ai biết được. Tôi chưa thấy một tư liệu nào nói về vấn đề đó.
Với phương cách chữa trị bệnh của cụ Trưởng Cần, hiện nay có người cho rằng, khả năng là Cụ sai “âm binh” hoặc một thế lực siêu nhiên chữa bệnh.
Với phương cách chữa trị bệnh của cụ Trưởng Cần, hiện nay có người cho rằng, khả năng là Cụ sai “âm binh” hoặc một thế lực siêu nhiên chữa bệnh.
Đây là một dự đoán không phải là không có cơ sở. Nếu dựa theo thuyết lý Phật đạo ta sẽ thấy người chữa bệnh cho cụ chính là những chúng sinh phát tâm nguyện gia bị, hộ trì cho hành giả phát tâm tụng kinh, trì Chú.
Trong Kinh Đà Ra Ni, Bồ Tát Quán Thế Âm nói: “Chúng sinh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần…
Trong Kinh Đà Ra Ni, Bồ Tát Quán Thế Âm nói: “Chúng sinh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần…
Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sinh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện thần, long vương, kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ…
Các vị thiện thần này cùng thần long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 đại lực dạ xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người thọ trì thần chú Đại Bi. Long vương hóa làm người lành chỉ dẫn lối”.
Trong Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bổn nguyện, đức Phật nói có 12 vị đại tướng Dược Xoa mỗi vị đầu có bẩy nghìn Dược Xoa quyến thuộc đi theo đều thề nguyện hộ trì, hộ vệ những người thọ trì Kinh Dược Sư.
Trong Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bổn nguyện, đức Phật nói có 12 vị đại tướng Dược Xoa mỗi vị đầu có bẩy nghìn Dược Xoa quyến thuộc đi theo đều thề nguyện hộ trì, hộ vệ những người thọ trì Kinh Dược Sư.
“Nếu có người nào thọ trì danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Quang Lưu Ly Như Lai cung kính cúng dàng. Quyến thuộc chúng con hộ vệ người ấy, khiết cho giải thoát hết thảy khổ nạn, có cầu nguyện gì đều được đủ cả, hoặc có ai cầu thoát khỏ bệnh tật, ách nạn cũng nên đọc kinh này.
Lấy chỉ ngũ sắc mà kết thành chữ tên của chúng con - các vị Đại tướng Dược Xoa được như nguyện rồi sau hãy cởi ra.”
Những chúng sinh đó là : Thiện thần, Long vương, Kim cang mật tích, đại lực Dược Xoa … Đó là những chúng sinh trong 10 pháp giới nhưng mắt người không nhìn thấy được. Đó cũng là những thế lực siêu nhiên có mặt khắp nơi trong cõi Ta Bà.
Hiện tượng chữa bệnh của các vị thiền sư và cụ Trưởng Cần thể hiện sự vi diệu, bất khả tư nghì của các Kinh, Chú Phật.
Cái vi diệu, bất khả tư nghì đó đã trở thành siêu tưởng, thần bí, không thể giải thích được đối với trí tuệ thế gian. Vì sao vậy? Vì trí tuệ thế gian chỉ tiếp nhận được cái hữu hạn thông qua nhục nhãn của con người nên không thể lĩnh hội được cái vô hạn của vũ trụ mà chỉ có trí tuệ xuất thế gian mới nhìn thấu được.
Tôi nhớ, có một lần tôi kể cho một người bạn về hiện tượng dấu hiệu của người được vãng sinh lên thế giới Tây Phương Cực lạc. Sau khi chết thân thể nóng ấm như người còn sống, khuôn mặt trang nghiêm, thanh thoát. Trạng thái đó kéo dài 3 – 7 ngày tuỳ theo nghiệp lực của mỗi người.
Người bạn đó bảo tôi là phi vật lý, hoang đường và cho đó là những trò lừa bịp của Phật giáo. Đó là cái nhìn của trí tuệ thế gian còn đối với những Phật tử theo Tịnh Độ Tông thì đó là bình thường và thực tế sau khi chết rất nhiều người tu theo pháp môn này có hiện tượng như vậy.
Sau khi giải thích sự diệu dụng của Chú Đại Bi và 42 Thủ nhãn Ấn pháp HT. Tuyên hoá đã nói: “Những điều tôi phân tích trên đây có thể những bạn đọc mới phát sơ tâm bồ tát thất thật khó tin và nghi ngờ. Đức Phật đã hiểu điều đó vì căn cơ của chúng sinh Nam Diêm Phù Đề không dễ gì lãnh hội được những điều uyên thâm, vi diệu trong kinh điển Phật”.
Sau khi giải thích sự diệu dụng của Chú Đại Bi và 42 Thủ nhãn Ấn pháp HT. Tuyên hoá đã nói: “Những điều tôi phân tích trên đây có thể những bạn đọc mới phát sơ tâm bồ tát thất thật khó tin và nghi ngờ. Đức Phật đã hiểu điều đó vì căn cơ của chúng sinh Nam Diêm Phù Đề không dễ gì lãnh hội được những điều uyên thâm, vi diệu trong kinh điển Phật”.
Đức Phật Thích Ca Mầu Ni trong Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bổn nguyện hiểu được trí tuệ thế gian của con người cũng thốt lên rằng: “Như ta khen ngợi công đức bổn nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó là những chỗ hành vi rất sâu của các đức Phật khó hiểu suốt lắm, ông có tin không ? …Ông A-Nan ơi ! làm được thân người đã là khó lắm nghe được danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thời lại khó hơn”.
Nghiên cứu tiếp sự diệu dụng của Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, HT.Tuyên Hoá nói rằng “Nếu hành giả kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến sách ấn pháp vào sợi dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra, các loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy thoát được.
Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây là diệu dụng của ấn pháp này. Mới xem qua thì có vẻ bình thường nhưng công năng thật khó lường”.
Các phương pháp chữa bệnh của Phật giáo không phải ai cũng làm được. Ngoài việc luyện công tu hành, hành đạo Bồ Tát, vị thầy thuốc phải có nhân duyên với người bệnh.
Các phương pháp chữa bệnh của Phật giáo không phải ai cũng làm được. Ngoài việc luyện công tu hành, hành đạo Bồ Tát, vị thầy thuốc phải có nhân duyên với người bệnh.
Có khi cùng một loại bệnh, bệnh nhân không có nhân duyên với thầy thuốc thì bệnh nhẹ trở thành bệnh năng, bệnh nặng không những chữa không khỏi.
Theo HT.Tuyên Hoá: Tất cả đều tùy thuộc vào nhân duyên giữa hành giả và người bệnh. Nếu quý vị có nhân duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ uống xong nước có trì chú Đại Bi liền được khỏi bệnh. Còn nếu người bệnh không có duyên với hành giả, thì dù họ có uống nước đã trì chú, nhưng vì họ không có niềm tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không được lành hẳn.
Những người vốn đã tạo nghiệp chướng sâu dày, nếu được uống nước đã trì chú vào thì không đủ tạo nên nặng lực để chuyển hóa bệnh của họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước đã trì chú vào thì có thể phát sinh năng lực to lớn, tạo ra một năng lực cảm ứng đạo giao. Chính năng lực này đã chữa lành bệnh.
Viết đến đây có thể nhiều người sẽ đặt ra câu hỏi, hiện nay có một số người chữa bệnh theo phương pháp của cụ Trưởng Cần nhưng đâu có thấy tu luyện gì. Vì sao phương pháp chữa bệnh của cụ lại là của các thiền sư Phật giáo mà không phải các đạo giáo khác….
Những người vốn đã tạo nghiệp chướng sâu dày, nếu được uống nước đã trì chú vào thì không đủ tạo nên nặng lực để chuyển hóa bệnh của họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước đã trì chú vào thì có thể phát sinh năng lực to lớn, tạo ra một năng lực cảm ứng đạo giao. Chính năng lực này đã chữa lành bệnh.
Viết đến đây có thể nhiều người sẽ đặt ra câu hỏi, hiện nay có một số người chữa bệnh theo phương pháp của cụ Trưởng Cần nhưng đâu có thấy tu luyện gì. Vì sao phương pháp chữa bệnh của cụ lại là của các thiền sư Phật giáo mà không phải các đạo giáo khác….
Để giải thích vần đề này tôi xin tiếp tục ở phần 3.
Đây là tờ đạo mà cụ dùng để đưa cho bệnh nhân đốt và để lên chổ đau
Bảo Bát Thủ nhãn Ấn pháp . Cầm bình báu - Chân ngôn : Án –, chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét