Thứ Năm, 17 tháng 8, 2017

Trì Cú Thần Chú

- Nam mô A Di Đà Phật
- Nam mô Đăng Tôn Vương Như Lai
- Nam mô Vô Lượng Quang Minh Đại Bồ Tát
- Nam mô Đại Quang Minh Đại Bồ Tát
A tri hòa tri, na tri cưu na tri, đề lê, sa la ba đề, a na ba đề, ba na đề, ba na ca hòa ni, ma ha ca hòa ni.
Rồi tay trái bắt ấn Cát Tường tự mình trì Chú này 108 biến đeo bệnh tật tai họa lìa xa. Vì ai trì chú này ma quỷ không dám tới gần. Đọc trì thì ma quỷ cũng được vãng sinh, những nơi nào âm khí nhiều, trong nhà có ma nên trì Chú này tự nhiên sẽ hết!
Những nơi nguy hiểm đến tính mạng, súng đạn đao binh, giặc cướp, vào những nơi rừng sâu nước độc... Cần nên đọc và dùng Ấn Cầm Cú.
=============================================

MẬT TÔNG (Bốn Tập)
PHẬT NÓI KINH TRÌ CÚ THẦN CHÚ
Tôi nghe như vầy: Một thời Ðức Phật ở tại nước Xá Vệ, rừng cây Kỳ Ðà, vườn Cấp Cô Ðộc, cùng với các vị đại Tỳ Khưu chúng, gồm có 1250 người, còn Bồ Tát thì hơn muôn vị. Bây giờ từ cõi Phật đây trải qua ức trăm ngàn cõi Phật. Có thế giới gọi Vô Lượng Hoa, Ðức Phật kia hiệu Ngài là Ðăng Tôn Vương Như Lai Vô Sở Trước Chí Chơn Ðẳng Chánh Giác hiện nay Ngài đang nói pháp ở đó. Phật sai hai vị Bồ Tát: một gọi là Vô Lượng Quang Minh, hai là Ðại Quang Minh. Khi hai vị Bồ Tát đến chỗ đức Thích Ca Văn Phật cúi đầu sát nơi chân Phật rồi lui đứng một bên mà bạch Ðức Phật rằng: “Kính thưa Thế Tôn! Từ cõi Phật này trải qua ức trăm ngàn nước Phật, có thế giới Vô Lượng Hoa, Phật kia hiệu là Ðăng Tôn Vương Như Lai sai chúng con đến thăm Thế Tôn có được bình thường chăng? Các chúng được an ổn không chi khác ư? Thiên long, quỷ thần, ngạ quỷ, nữ quỷ Cưu Hằng hoặc người và phi nhơn, cọp beo thú dữ muốn được không não loạn, quấy rối nhân dân, vậy nên hãy dùng Trì Cú Thần chú mà Phật kia sai chúng con đem đến đây, vì nghĩ thương chúng sanh muốn cho họ an vui, được danh thơm lành tốt, được tiếng tăm khen ngợi, được sức oai thần như vậy.
Phật dạy A Nan: Thọ trì Trì Cú Thần chú chấp trì đọc tụng, gặp đời Phật rất khó, Trì Cú Thần chú gặp được còn khó hơn. Kẻ trai lành và người gái tín nào thọ hành Trì Cú Thần chú gặp được còn khó hơn. Kẻ trai lành và người gái tín nào thọ hành Trì Cú Thần chú, thọ trì đọc tụng thì sẽ biết được túc mạng trong bảy đời. Người thọ trì ấy tất cả Phù Ðà quỷ thần, người cùng phi nhơn không dám gần gũi, nhiễu loạn, độc xà không dám chích, độc dược tự tiêu trừ, đao bén chẳng trúng thương, vương giặc chẳng dám hại, Phạm Vương không dám giận. Trì Cú Thần chú bảy mươi bảy ức Ðức Phật đã nói, hủy phạm người trì Thần chú đây sẽ đắc đại trọng tội.
Lại có Bồ Tát Di Lặc hết thảy tám mươi vị, bảo Hiền giả A Nan rằng: “Tôi cũng sẽ nói Trì Cú Thần chú, nghĩ thương chúng sanh muốn họ được an vui, được danh thơm lành, được tiếng tăm khen ngợi, được sức oai thần như thế.
Phật dạy A Nan: Thọ trì Trì Cú Thần chú chấp trì đọc tụng. Gặp Phật ra đời rất khó. Trì Cú Thần chú đọc tụng thọ trì sẽ biết được túc mạng trong mười bốn đời. Người thọ trì ấy tất Phù Ðà quỷ thần, người và phi nhơn không dám gần gũi nhiễu loạn, rắn độc không dám chích, thuốc độc tự nhiên trừ, dao bén không trúng thương, nạn vua chẳng dám hại, Phạm Vương chẳng dám giận. Trì Cú Thần chú này là tám mươi bốn ức chư Phật đã nói. Hủy báng người trì chú đắc đại trọng tội.
Phật dạy A Nan: “Ta cũng sẽ nói Thần chú Trì Cú nghĩ thương chúng sanh khiến được an vui, được danh thơm lành tốt, được tiếng tăm khen ngợi, được sức oai thần như thế:
Phật dạy A Nan: “Người thọ trì đọc tụng Trì Cú Thần chú này gặp Phật ra đời rất khó, Trì Cú Thần chú càng rất khó hơn. Nếu kẻ trai lành và người gái tín nào thọ trì đọc tụng Thần chú Trì Cú thì biết được túc mạng trong vô số kiếp. Người thọ trì ấy tất cả Phù Ðà quỷ thần, người cùng phi nhơn không dám gần gũi nhiễu loạn, độc xà không dám chích, độc dược tự nhiên trừ, dao bén chẳng tổn thương, nạn vua chẳng dám hại, Phạm Thiên chẳng dám giận. Trì Cú Thần chú này là vô số ức chư Phật đã nói. Hủy phạm người trì chú sẽ đắc đại trọng tội.
Phật dạy A Nan: “Trì Cú Thần chú này khi đi đường hành đạo phải nên niệm tụng, hoặc đến chốn quan quyền, hoặc giữa đường bị giặc, hoặc bị trùng độc, hoặc trong nạn đao binh, hoặc người cùng phi nhơn, hoặc trong những hoạn nạn ấy phải nên niệm tụng là vì Thần chú Trì Cú, chú nơi cây khô khiến sanh cành lá hoa trái, huống nữa là người ấy chỉ trì gút Thần chú mà đeo, sẽ được lành trăm bệnh tiêu trừ, tự nhiên an ổn, diệt họa trừ hung. Nam Mô Phật khiến chú này đều được tùy nguyện.
Phật nói kinh này rồi hết thảy đại chúng hết lòng vui mừng.

XÃ BỎ TÂM PHÂN BIỆT

Con đường TU cần phải trải qua gian khổ; như vậy mới có khai ngộ. Không nên hy vọng mọi người đối với mình tốt; nếu người tu chẳng vậy thì không khác gì kẻ thế tục.
Tu hành thì phải chịu thiệt thòi, thua lỗ; có vậy mới tu tiến bộ.
Tu hành là làm những việc mà không ai chịu làm, luôn dũng mãnh, tinh tấn, chứ không phải tính toán, so đo rằng: "Việc này đâu phải để tôi làm!"; bởi đó là thái độ chẳng khác người đời.
Làm những việc mà kẻ khác không làm, đó là cách tu phước huệ. Tu hành không phải là làm việc tính toán, so đo; không cần phải toan tính, sắp đặt.
Điều tốt thì góp nhặt để học; điều xấu thì vứt qua một bên, Tự mình trong lòng thông hiểu là đủ rồi; thuận theo đây mà tu hành Nhẫn Nhục Ba La Mật. Tu thì đừng hỏi ĐÚNG với SAI, đừng kể CÓ LÝ hay VÔ LÝ.
Tu thì đừng nói thị phi, ai đúng ai sai. Dù mình ĐÚNG LÝ mà người khác nói mình SAI, mình cũng cứ tiếp nhận ý kiến ấy. Hễ bạn tự nhận mình sai - dù mình đúng - thì phiền não sẽ không khởi; bằng ngược lại, tâm bạn sẽ không an, phiền não sẽ kéo tới. Trên đường tu, có rất nhiều thứ không giống với đường đời, thế tục; do đó, đừng nên tranh chấp ĐÚNG VỚI KHÔNG ĐÚNG!
Xưa có hai người đồ đệ cùng tọa Thiền, một người
ngồi rất trang nghiêm, còn người kia thì nghiêng qua ngã lại; nhưng Sư Phụ của họ lại lấy roi quất người ngồi nghiêm trang. Nếu là người thời nay thì có lẽ y đã nổi giận, sinh phiền não rồi; song người đệ tử ấy thì lại vô cùng xấu hổ, thỉnh vấn Sư Phụ khai thị dạy bảo.
Tu hành không phải là tranh chấp ĐÚNG VỚI SAI. Tu hành cần phải có công phu nhẫn nhục, dù mình đúng mà bị trách là sai, mình cũng phải nhận chịu.
Nếu bạn thật có lòng muốn tu, thì đó chính là phước của bạn, do vậy cần tu cả phước lẫn huệ. Mỗi người cần trừ sạch hết những nghiệp chướng đã tạo xưa kia, rồi đừng tạo thêm nghiệp mới nữa, như vậy thì phước, huệ sẽ tăng gia.
“Hòa Thượng Quảng Khâm”
Niệm Kinh Chú mục đích nhiếp phục tam nghiệp hằng thanh tịnh để trừ được ba ác nghiệp là: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
THÂN NGHIỆP gồm ba: KHÔNG SÁT SANH, KHÔNG TRỘM CẮP, KHÔNG TÀ DẦM
KHẨU NGHIỆP gồm bốn: KHÔNG NÓI DỐI, không NÓI LỜI ÁC KHẨU, không NÓI LƯỠI HAI CHIỀU, không NÓI LỜI THÊU DỆT
Ý NGHIỆP gồm ba: THAM, SÂN, SI
Như vậy niệm Kinh, niệm Chú, niệm Phật cũng đều mục đích như nhau để tam nghiệp hằng thanh tịnh. Khi tâm mình thanh tịnh tức tâm bình, tâm bình tạo ra thế giới bình “tướng tự tâm sanh,” mây tan thì trăng tự nhiên hiển bày tỏa sáng.
Khi chúng ta niệm chú một cách nhất tâm thì sẽ đoạn trừ được phiền não.

Kinh chú của Phật, tất cả mọi người có thể trì, nhưng muốn được lợi lạc trong khi tụng Kinh trì Chú người Phật tử cố gắng giữ tam nghiệp thanh tịnh, giữ giới dứt các điều ác làm các việc lành mới được công đức tốt đẹp.
các nghi thức thường hay dùng:
1. Lạy Sám Hối
2. Trì Chú Dược Sư
2. Trì chú Đại Bi
4. Trì Tiêu Tai Kiết Tường thần chú
5. Trì Chú an thổ địa và như ý
6. Trì Chú Trường Thọ Diệt Tội Chơn Ngôn.
7. Phóng Sinh
NGHI THỨC LẠY SÁM HỐI
(Thầy Thích Tịnh Từ)
1. Công dụng:
Bất cứ ai có bệnh tật, có thói xấu, có hậu quả xấu do ác Nghiệp gây nên (trong đời này hay đời trước): như đau ốm bác sĩ bó tay, thuốc thang không thể chữa trị, bệnh uống rượu, nghiện ngập, bệnh cờ bạc tán gia bại sản, bệnh tham dục, ngoại tình; bệnh nóng giận, bệnh ác khẩu, ưa gây gổ, mạ lỵ, chưởi mắng nặng lời người; bệnh gian dối lừa gạt v.v. đều có thể thực tập phép sám hối để từ bỏ và diệt trừ mọi tật xấu tệ, gây đau khổ cho bản thân, gia đình đời này, và đời sau.
2. Nghi thức lạy:
Chọn giờ yên tĩnh trong ngày, tốt nhất là từ 4-7 sáng (hoặc tùy thời gian cho phép). Trước khi thực hiện cần tắm rửa sạch sẽ, thay y phục. Kế đến thắp 3 cây hương, gõ 3 tiếng chuông (nếu có), quỳ gối nói lời phát nguyện:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật (3 lần)
Đọc lời nguyện: Đệ tử con tên là…..Phápdanh…… tuổi…..sinh ngày….. tháng….năm…..Hôm nay đối trước bàn thờ Phật và ông bà tổ tiên, con xin thành tâm cử hành phép Sám Hối, cầu nguyện các nghiệp xấu của con đã tạo từ nhiều kiếp trước tới nay được tiêu trừ, tâm lành mỗi ngày thêm rộng lớn, mọi chuyện tốt đẹp, gia đình hạnh phúc…. Cúi xin mười phương Chư Phật, Chư Bồ Tát từ bi gia hộ.
(nguyện xong cắm hương và bắt đầu lạy)
Đệ tử con tên là….Pháp danh…. Từ trước đến nay vì do ba nghiệp tham sân si từ thân miệng ý phát sinh ra, hôm nay đệ tử chí thành xin sám hối. (phải đọc câu này trước khi xướng lên từng danh hiệu Phật dưới đây)
- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Thanh Tịnh Pháp Thân Tỳ Lô Giá Na Phật. (10 lạy)
- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Viên Mãn Báo Thân Tỳ Lô Giá Na Phật. (10 lạy)
- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Thiên Bách Ức Hóa Thân Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (10 lạy)
- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật. (10 lạy)
- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại Từ Đại Bi A Di Đà Phật. (10 lạy)
- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đương Lai Hạ Sinh Di Lạc Tôn Phật. (10 lạy)
- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại Từ Đại Bi Quan Thế Âm Bồ Tát.(10 lạy)
- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát.(10 lạy)
- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.(10 lạy)
- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha Tát.(10 lạy)
- Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đạo Tràng Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát. (8 lạy)
Lạy đủ 108 lạy quỳ xuống đọc lời hồi hướng và phát nguyện:
Sám hối pháp thâm diệu
Tạo công đức vô biên
Đệ tử xin hồi hướng
Cho chúng sinh mọi miền
Pháp môn xin nguyện học
Ân nghĩa xin nguyện đền
Phiền não xin nguyện đoạn
Quả Phật xin chứng nên.
Hồi Hướng:
Nguyện đem công đức này
Tiêu trừ nghiệp xưa nay
Tăng trưởng các phước huệ
Viên thành căn thánh thiện
Bao nhiêu nghiệp tham dục
Bao nhiêu nghiệp sân si
Bao nhiêu nghiệp thân khẩu ý
Đều diệt sạch không còn
Quyến thuộc đồng an lạc
Oan gia về niết bàn
Cùng pháp giới chúng sanh
Đồng trọn thành phật đạo.
CHÚ DƯỢC SƯ:
1.Công dụng: ai khó khăn, nghèo khổ, vợ chồng hay gây gổ, bệnh tật, bị kiện tụng, tính tình tranh đấu hơn thua, nghiệp quả nhiều…nên trì càng nhiều càng tốt. (Tâm chí thành tin và tin chắc 100% sẽ đạt như ý nguyện. Chuyên trì 3 năm thì sẽ cầu được ước thấy)
2.Đọc trì chú: đọc 108 biến (nhiều lần càng tốt).
3.Nghi thức trì chú:
Tịnh Pháp giới chân ngôn: Úm lam xóa ha (3 lần).
Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Úm ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật đồ hám
(3 lần).
Nguyện hương: Nguyện đem lòng thành kính, gửi theo đám mây hương, phản phật khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam Bảo. Thề trọn đời giữ Đạo, theo tự tánh làm lành, cùng pháp giới chúng sanh, đồng tròn thành Phật Đạo.
(Nếu không trì tụng trước bàn thờ không đốt nhang thì có thể miễn)
Tán Phật Dược Sư:
Ta bà cảnh giới thật mong manh. Vì để giúp đời,
nói pháp kinh. Bảy Phật Dược Sư diệt tội chướng.
Mười hai nguyện lớn cứu quần sanh. Ba ngàn hóa
Phật đồng gia hộ. Tám vị Bồ Tát chứng lòng thành
Giải kết Tiêu tai tăng phước thọ, phước duyên lợi
lạc, sống an lành.
Nam mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật (3 lần)
DƯỢC SƯ QUÁN ĐẢNH CHÂN NGÔN
Nam mô bạc già phạt đế, bệ sát xã, lu lô tích lưu ly, bác lặc bà, hắc ra xà dã. Đát tha yết đa tha, a ra hắc đế. Tam miệu tam bột đà da, đát điệt tha. Án! Bệ sát thệ, bệ sát thệ, bệ sát xã tam một yết đế xóa ha. (Đọc từ Nam mô... Xóa ha 108 lần)
Giải kiết, giải kiết, giải oan kiết, nghiệp chướng bao đời đều giải kiết. Rửa sạch lòng trần, phát tâm thành kính. Đối trước Phật đài xin giải oan nghiệt. Dược Sư Phật, Dược Sư Phật. Tiêu tai diên thọ Dược Sư Phật. Tùy tâm mãn nguyện Dược Sư Phật.
Tiêu tai diên thọ Dược Sư Phật. (đọc 3 lần)
Hồi hướng:
Nguyện đem công đức này
Tiêu Trừ nghiệp xưa nay
Tăng Trưởng các phước huệ
Viên thành căn thánh thiện
Bao nhiêu nghiệp tham dục
Bao nhiêu nghiệp sân si
Bao nhiêu nghiệp Thân Khẩu Ý
Đều diệt sạch không còn
Quyến thuộc đồng an lạc
Oan gia về Niết Bàn
Cùng pháp giới chúng sinh
Đồng trọn thành Phật Đạo.
Trường hợp thời gian bức bách không thể tập trung để đọc Chú được thì có thể niệm Danh Hiệu Dược Sư cũng có đồng tác dụng:
Nam Mô Dược Sư Phật. (1080 lần hay nhiều hơn càng tốt)
(nếu có việc gì không còn cách cứu giải thì có thể dùng chỉ ngũ sắc đọc tên 12 vị Đại Tướng Dược Xoa và thắt 12 gút, nhưng trước đó phải trì chú Dược Sư 108 biến trong vòng 7 ngày, sau mới đọc tên và thắt gút. Sau đó mỗi ngày cứ đọc chú Dược Sư hay niệm Nam Mô Dược Sư Phật thì sẽ được như ý nguyện):
Mười Hai Đại Tướng Dược Xoa Giúp Phật tuyên dương chỉ ngũ sắc gút tên kia. Tùy nguyện được
viên thành phước thọ mãi khang minh.
Cung Tỳ La Đại Tướng
Phạt Chiết La Đại Tướng
Mê Súy La Đại Tướng
An Để La Đại Tướng
Át Nể La Đại Tướng
San Để La Đại Tướng
Nhơn Đạt La Đại Tướng
Ba Di La Đại Tướng
Ma Hổ La Đại Tướng
Chơn Đạt La Đại Tướng
Chiêu Hổ La Đại Tướng
Tỳ Yết La Đại Tướng


CHÚ ĐẠI BI
1.Công dụng: quý vị mong cầu công việc được tốt lành và mong muốn thai…
2.Đọc trì chú: đọc 21 biến, 108 biến (nhiều lần càng tốt). Tin 100% nhất định sẽ có, còn 99% thì chưa chắc.
3.Nghi thức trì chú:
Tịnh Pháp giới chân ngôn: Úm lam xóa ha (3 lần).
Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Úm ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật đồ hám (3 lần).
Nguyện hương: Nguyện đem lòng thành kính, gửi theo đám mây hương, phản phật khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam Bảo. Thề trọn đời giữ Đạo, theo tự tánh làm lành, cùng pháp giới chúng sanh, đồng tròn thành Phật Đạo. (Nếu trì tụng trước bàn thờ thì đọc, còn nếu không hành lễ trước bàn thờ không đốt nhang thì có thể miễn)
Nam Mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ Tát(3 lần)
Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
Nam-mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam-mô a lị da, bà lô kiết đế, thước bát ra da, bồ đề tát đỏa bà da. Ma-ha-tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án! tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.
Nam-mô tất kiết lật đỏa, y mông a lị da bà lô kiết-đế, thất Phật ra lăng đà bà.
Nam-mô na ra cẩn trì hê ri, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà đà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê lị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, lị đà dựng, câu lô câu lô kiết mông, độ lô độ lô phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê y hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ, bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắt ni na, ba dạ ma na ta-bà ha, tất đà dạ ta-bà ha. Ma ha tất đà dạ ta-bà ha. Tất đà du nghệ thất bàn ra da ta-bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ, ta-bà ha. Ma ra na ra ta-bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta-bà ha. Ta-bà ma ha, a tất đà dạ ta-bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta-bà ha.
Ba đà ma yết tất đà dạ ta-bà ha. Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ ta-bà ha. Ma bà lị thắng kiết ra dạ, ta-bà ha.
Nam-mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam-mô a lị da
bà lô kiết-đế thước bàn ra dạ, ta-bà ha.
Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ ta-bà ha.
(Nên đọc 21 lần mỗi khi tụng; biến cuối cùng đọc 3 lần câu: Án tất điện đô mạn đa ra bạt đà dạ ta-bà ha.)
Hồi Hướng:
Nguyện đem công đức này
Tiêu Trừ nghiệp xưa nay
Tăng Trưởng các phước huệ
Viên thành căn thánh thiện
Bao nhiêu nghiệp tham dục
Bao nhiêu nghiệp sân si
Bao nhiêu nghiệp Thân Khẩu Ý
Đều diệt sạch không còn
Quyến thuộc đồng an lạc
Oan gia về Niết Bàn
Cùng pháp giới chúng sinh
Đồng trọn thành Phật Đạo.
Tiêu Tai Cát Tường Thần Chú:
1. Công dụng: Giải tất cả các tai họa do Vận Số, hay các vì sao xấu chiếu Mệnh, biến hung thành cát
2. Trì 108 biến trong vòng 21 ngày hay 3 tháng hay 1 năm, hoặc suốt đời. Tin 100% nhất định sẽ có, còn 99% thì chưa chắc.
3.Nghi thức trì chú:
Tịnh Pháp giới chân ngôn: Úm lam xóa ha (3 lần).
Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Úm ta phạ bà phạ, truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật đồ hám (3 lần).
Nguyện hương: Nguyện đem lòng thành kính, gửi theo đám mây hương, phản phật khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam Bảo. Thề trọn đời giữ Đạo, theo tự tánh làm lành, cùng pháp giới chúng sanh, đồng tròn thành Phật Đạo. (Nếu trì tụng trước bàn thờ thì đọc, còn nếu không hành lễ trước bàn thờ không đốt nhang thì có thể miễn)
Nẵng mồ tam mãn đa, Mẫu đà nẫm, A bát ra để, Hạ đa xá ta nẵng nẫm, Đát điệt tha. Án, khư khư, khư hứ, khư hứ, hồng hồng, Nhập phạ ra, nhập phạ ra, Bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, Để sắc sá, để sắc sá, Sắc trí rị, Ta phấn tra, ta phấn tra, Phiến để ca, Thất rị duệ, xóa ha. (108 lần)
1. Nguyện ngày an lành, đêm an lành
2. Đêm ngày sáu thời thường an lành
3. Tất cả các thời đều an lành
4. Tất cả chúng sinh đều an lành
5. Nguyện đức từ bi thường gia hộ
6. Nam mô Tiêu Tai Giáng Kiết Tường Bồ Tát
(đọc 3 lần từ câu 1 đến 6).
Hồi Hướng:
Nguyện đem công đức này
Tiêu Trừ nghiệp xưa nay
Tăng Trưởng các phước huệ
Viên thành căn thánh thiện
Bao nhiêu nghiệp tham dục
Bao nhiêu nghiệp sân si
Bao nhiêu nghiệp Thân Khẩu Ý
Đều diệt sạch không còn
Quyến thuộc đồng an lạc
Oan gia về Niết Bàn
Cùng pháp giới chúng sinh
Đồng trọn thành Phật Đạo.
CHÚ TRƯỜNG THỌ DIỆT TỘI CHƠN NGÔN
1.Công dụng: những phụ nữ đang mong có thai
(hoặc sẩy) sẽ có con như ước nguyện (mẹ tròn con
vuông)
2.Đọc chú: nên đọc cùng với chú Đại Bi, 108 biến
(càng nhiều càng tốt)
3.Nghi thức:
Tịnh Pháp giới chân ngôn: Úm lam xóa ha (3 lần).
Tịnh tam nghiệp chân ngôn: Úm ta phạ bà phạ,
truật đà ta phạ, đạt mạ ta phạ, bà phạ truật đồ hám
(3 lần).
Nguyện hương: Nguyện đem lòng thành kính, gửi
theo đám mây hương, phản phật khắp mười
phương, cúng dường ngôi Tam Bảo. Thề trọn đời
giữ Đạo, theo tự tánh làm lành, cùng pháp giới
chúng sanh, đồng tròn thành Phật Đạo.
Chú Trường Thọ Diệt Tội Chơn Ngôn
Ba đầu di, ba đầu di, đề tỳ hề ni hề ni, hề di da
lê, gia la gia lệ, hầu la hầu la, do lệ do la, do lệ
ba la, ba lệ văn, chế sân diệt, tần diệt bát thệ
mạt diệt trì na ca lê, ta bà ha.
(THẦN CHÚ DÙNG CHO PHONG THỦY)
CHÚ AN THỔ ĐỊA VÀ NHƯ Ý
Nếu quý vị muốn xây nhà hay sửa chỗ nào chỉ cần đến
nơi chỗ đất ấy đi vòng quanh mảnh đất ấy hay chỗ ấy
theo chiều kim đồng hồ và trì Chú An Thổ Địa 108 lần:
NA-MA SA-MĂN-TÁ BÚT-ĐA-NĂM.
OM ĐU-RU ĐU-RU ĐÊ-VI SOA-HA.
Sau đó khấn nguyện cho nơi hay chỗ đó được an lành và cho biết ngày giờ động thổ, hay sửa và nói 3 lần rồi dùng chân dậm xuống đất 3 lần. Sau đó cứ thế làm!
Khi cất nhà xong thì dùng Chú Như Ý viết tên trấn 4
hướng chính và đọc 108 lần mỗi ngày càng tốt. Nếu
trong phòng nào con cái ngủ hay khóc hay có chuyện không lành hoặc có ma quái thì phòng đó lại theo 4 hướng chính viết tên các vị Thần ấy và đọc 108 lần nữa, cứ thế đọc vài lần thì nhà sẽ an lành hết tai họa.
Nói chung trong nhà mỗi ngày đọc càng nhiều càng tốt, dù phong thủy xấu đến đâu cũng tự nhiên được an cư lạc nghiệp!
Chú ấy như sau:
"Bất kỳ ở căn hộ nào thì tìm trên vách tường hướng
Đông của nơi đó mà viết tên vị chúa sấm sét A Ga Ta; vách tường hướng Nam viết tên Sa Tát Ru; vách tường hướng Tây viết tên Chu Ta Ba; vách tường hướng Bắc viết tên Su Ta Ma Ni.
Nơi chỗ ở mà viết tên của họ thì chỗ ở ấy không còn phải sợ sấm sét, không tai ách và chướng nạn, không cả chết phi thời, chết oan uổng. Bấy giờ đức Thế tôn tuyên thuyết minh chú Như ý:
Tát da tha, ni mi ni, ni mi ni, ni min đa ri, tri lô ka, lô ka ni, tri su ra pa ni, rát sa, rát sa, sóa ha. Cầu nguyện cho con và chỗ ở này rời xa sự sợ hãi, sự khổ não, sự sấm sét, sự uổng tử. (108 lần)
NGHI THỨC PHÓNG SANH
1.Công dụng: nuôi dưỡng tâm từ bi, kéo dài tuổi thọ
2.Nghi thức:
Hôm nay là ngày…tháng…năm, con tên là…pháp
danh… địa chỉ… Con phát nguyện mua chim (cá…)
phóng sanh, hồi hướng cho hương linh gia đình.
Lẽ ra có Chư Tăng Ni quy y cho các Ngài nhưng vì
không có Chư Tăng Ni nên các Ngài tự quy y cho
mình
“Chúng sanh tự quy y Phật
Chúng sanh tự quy y Pháp
Chúng sanh tự quy y Tăng
Chúng sanh tự quy y Phật bất đọa địa ngục
Chúng sanh tự quy y Pháp bất đọa ngã quỷ
Chúng sanh tự quy y Tăng bất đọa bàng sanh
Chúng sanh tự quy y Phật đấng phước trí vẹn toàn
Chúng sanh tự quy y Pháp đạo thoát ly tham dục
Chúng sanh tự quy y Tăng bậc tu hành cao tột
Chúng sanh tự quy y Phật cánh
Chúng sanh tự quy y Pháp cánh
Chúng sanh tự quy y tăng cánh
Chúng sanh tự quy y Phật nguyện đời đời kiếp
kiếp không quy y thiên thần quỷ vật.
Chúng sanh tự quy y Pháp nguyện đời đời kiếp
kiếp không quy y ngoại đạo tà giáo.
Chúng sanh tự quy y Tăng nguyện đời đời kiếp
kiếp không quy y tôn hữu ác đẳng.”
(đọc trong “…” 3 lần)
Chúng sanh đã tự quy y Phật
Chúng sanh đã tự quy y Pháp
Chúng sanh đã tự quy y Tăng
Chúng sanh vốn tạo các vọng nghiệp
Đều do thỉ tham sân si
Tự thân miệng ý phát sinh ra
Ngày nay chúng sanh chí thành hướng về mười
phương Chư Phật cầu xin sám hối.
Vãng sanh quyết định chơn ngôn: (chú vãng sanh)
Nam mô a di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa địa
dạ tha. A di rị đô bà tỳ, A di rị đa tất đam bà tỳ,
A di rị đa tỳ can lan đế, A di rị đa tỳ can lan đa.
Dà di nị dà dà na, chỉ đa ca lệ ta bà ha. (đọc 3-21 lần)
Tán A Di Đà:
A Di Đà Phật thân kim sắc
Tướng tốt quang minh tự trang nghiêm
Năm tu di uyển chuyển bạch hào
Bốn biển lớn trong ngần mắt biếc
Trong hào quang hóa vô số Phật
Vô số Bồ Tát hiện ở trong
Bốn mươi tám nguyện độ chúng sanh
Chín phẩm sen vàng lên giải thoát
Quy mạng lễ A Di Đà Phật
Ở Tây phương thế giới an lành
Con nay xin phát nguyện vãng sanh
Cúi xin đức từ bi tiếp độ
Nam Mô Tây phương cực lạc thế giới Đại Từ Đại
Bi A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật (10 lần)
A Di Đà Phật (108 lần)
Nam Mô Quan Thế Âm Bồ Tát (3 lần)
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát (3 lần)
Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần)
Nam Mô Thanh Tịnh Đải Hải Chúng Bồ Tát (3
lần)
Nguyện vãng sanh:
Nguyện sanh cực lạc cảnh Tây phương
Chín phẩm hoa sen là cha mẹ
Hoa nở thấy Phật ngộ vô sanh
Bồ Tát bất thối là bạn lữ.
Hồi hướng công đức:
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật tịnh
độ. Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ tam đồ.
Nếu có ai thấy nge, đều phát lòng bồ đề, hết một
báo thân này, đồng sanh về cực lạc.
Nam mô A Di Đà Phật. Nguyện đem công đức
này, hồi hướng cho cửu huyền thất tổ, đa sanh phụ
mẫu, tứ thân phụ mẫu, cặp lục thân quyến thuộc,
kẻ oán người thân, oan gia trái chủ rộng cùng pháp
giới chúng sanh. Trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu
khổ tam đồ, nếu có ai thấy nge, đều phát lòng bồ
đề, hết một báo thân này, đồng sanh về cực lạc.
Nguyện đem công đức này, hồi hướng cho hương
linh gia đình….(tên ông, bà, cha, mẹ…)
Nguyện đem công đức này hồi hướng cầu an cho
gia đình…( tên thành viên trong gia đình, kèm theo
tuổi…)
Tự quy y Phật, xin nguyện chúng sanh, thể theo
đạo cả phát lòng vô thượng (1 lạy)
Tự quy y Pháp, xin nguyện chúng sanh thấu rõ
kinh tạng, trí huệ như biển (1 lạy)
Tự quy y Tăng, xin nguyện chúng sanh thống lý
đại chúng hết thảy không ngại (1 lạy)
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử và chúng sanh
Đồng trọn thành Phật đạo.
Chúng con mỗi người vì phụ mẫu, sư trưởng lễ
Phật tam bái cầu sanh tịnh độ (3 lạy)
Nam Mô A Di Đà Phật.
(Đó là nghi thức phóng sanh)

Thứ Hai, 14 tháng 8, 2017

Bí mật về người chữa bệnh bằng tâm linh (phần 3)

Mặc dù những câu chuyện kể về cụ Trưởng Cần hầu như không nói gì về Phật giáo. Trong nhà cụ cũng không thờ các đức Phật và các chư vị Bồ Tát, nhưng trong câu nói của cụ, phong cách con người cụ, cuộc sống thanh tao đạm bạc của cụ luôn toát lên hình ảnh của một vị chân tu đạt đạo.

Ở thời của cụ Trưởng Cần, không chỉ đạo Phật mà hầu hết các tôn giáo khác cũng bị hạn chế, ngăn cấm. Có thể vì điều đó mà cho đến nay, Cụ đắc đạo nào,  tu theo pháp môn nào vẫn là một bí ẩn đối với nhiều người. Thêm nữa, những vị chân tu đạt đạo trong Phật giáo đều ẩn mình hành đạo Bồ Tát.

Vị thiền sư hành đạo Bồ tát

Nhiều người khâm phục trước năng lực kỳ diệu của cụ, đã suy tôn cụ lên ngôi thần thánh. Nhưng cụ nói: "Tôi chỉ là người, cũng ăn uống sống chết như mọi người khác."
Cụ còn khôi hài nói : "Tôi sợ đinh câu rút lắm."
Thật sự với khả năng và công đức của cụ, đối với Phật giáo thì các vị thần thánh chưa đạt xứng tầm với một con người như cụ Trưởng Cần.

Nói đến đây, có thể nhiều người sẽ hỏi : Trong cõi giới con người còn có rất nhiều đạo giáo khác cũng tu luyện không khác nhiều so với Phật giáo. Vì sao tác giả cho là cụ tu theo pháp môn của đạo Phật ? Vì sao tôi nói cụ Trưởng Cần là một vị thiền sư  tu luyện theo các pháp môn Phật giáo. Xin được trích dẫn một số tư liệu lấy từ trong cuộc đời cụ.

Trong lời kể do nhà giáo Vũ Văn Ngọc ghi, khi nghe xong nội dung của cuốn “Hồi dương nhân quả ”, nội dung: Việc ăn chay là ép xác sửa lòng, miễn là làm 10 điều lành, lánh 10 điều dữ thì đủ rồi. Nếu ăn chay niệm Phật mà 10 điều dữ không bỏ,10 điều lành không làm chẳng những không phúc, không công mà lại nhiều tội, nhiều lỗi.
Nếu chân tu thì phải sửa mình, giữ đạo là thứ nhất, bố thí ăn chay là thứ nhì. Cái nào cũng quý tại chữ Tâm, bố thí khó tại lòng Nhân, không khó đều ra có của. Ăn chay khó tại lòng Chính, không khó miệng cữ kiêng. 

Cụ Trưởng Cần đã  nói: "Cuốn kinh “Hồi dương Nhân quả” là kinh tu tắt". Và cụ dạy thêm rằng:  “Tu là việc khó, nên điều trước tiên là phải biết sửa mình”.
Qua câu trả lời của cụ ta hiểu được một điều là cụ rất am hiểu về kinh Phật. Rất am hiểu về quy luật nhân quả. Mà quy luật nhân quả là cốt lõi của đạo Phật.

Cụ có nói là bệnh của con người có hai vấn đề: “thân bệnh và nghiệp bệnh”. Thân bệnh thì có thể chữa được, còn nghiệp bệnh thì khó. Nghĩa là có người có thể khỏi bệnh, có người không khỏi. Vì vậy, mà cùng một thứ bệnh có người cụ nhận lời có người cụ không nhận lời.
Cụ bảo chữa bệnh phải có “Đức”. Tên của cụ là Nguyễn Đức Cần ở đấy có chữ “Đức”. Ở đây, khái niệm đạo đức của cụ là con người sống không làm điều ác, không phạm các tội lỗi với xã hội, không bất hiếu với cha mẹ, đó là đạo đức thông thường và cụ khuyên người ta làm việc thiện.

Những điều cụ Trưởng Cẩn nói chính là Năm điều đức Phật dạy con người (Làm điều thiện. Không làm điều ác. Làm trong sạch tâm ý mình….) Thuyết nhân quả, nghiệp luân hồi đều là những thuyết lý của nhà Phật. Người chưa tiếp cận với đạo Phật thì có thể khó hiểu, nhưng đối với các Phật tử thì rất  hiểu những điều cụ nói.
Khi một hành giả đã tu theo một pháp môn của Phật giáo sẽ hiểu, gieo nhân nào thì gánh quả đó.

Nghiệp là do con người tự tạo và con người tự gánh. Thần thánh cũng không giúp được gì. Vì lẽ đó mà cụ Trưởng Cần đã đưa hết những bát hương của bệnh nhân mang đến cụ  để ra ngoài sân. Cụ cho rằng ốm thì phải chữa bệnh chứ không phải cúng thờ hàng năm tốn phí biết bao nhiêu tiền.

Trong tư liệu về cuộc đời Cụ viết : “Cụ chữa bệnh và còn bài trừ mê tín dị đoan, cụ đã giải đồng cho biết bao người, vì cụ cho đồng bóng là mê tín. Cụ dậy làm người phải ăn ở có đức thì mới được đẹp, sinh sống hàng ngày phải lao động cần cù, phong tục tập quán thì nước nào cũng có, còn mê tín dị đoan thì nên bỏ” .
Cụ vốn là một người lao động, cụ rất quý những người lao động. Mục đích cuộc đời của cụ là: "Tôi chữa bệnh không lấy tiền,  như vậy tôi đã làm lợi cho dân. Đó là điều làm tôi sung sướng. Tôi chỉ muốn mọi người đều có cơm no, áo ấm,không bị ốm đau, thế thôi ”Sống mang lại hạnh phúc cho chúng sinh”".

Đó cũng là cuộc sống của các vị Bồ Tát thị hiện trong cõi giới con người.
Phật giáo hiện nay có ba tông phái chính là: Tịnh độ, Thiền tông và Mật tông. Khả năng thần thông, bắt ấn, trì Chú chữa bệnh của cụ rất gần với pháp môn Mật Tông. Mật Tông là sự kết hợp giữa đạo Bon truyền thống của người Tây Tạng với đạo Phật nên có những phép tu luyện huyền bí chuyên về bắt Ấn, trì Chú..

Để có thể tu luyện thành công theo tông pháp này, người tu thiền phải có căn cơ rất cao, phải trải qua sự khổ luyện rất lớn. Cũng để có được những thành tựu, khả năng chữa bệnh như cụ Trưởng Cần trong kiếp này, nhất định cụ đã trải qua hàng trăm kiếp tu hành trong quá khứ.

Có một chi tiết trong cuộc đời của cụ đã chứng minh, cụ đã tu đạt tới mức mở được thiên nhãn, thiên nhĩ tiếp cận với thế giới siêu hình trong lục đạo luân hồi.
Trong câu chuyện nhà giáo Vũ Văn Ngọc kể lại:  “Tôi cũng được cụ cho xem những lá thơ của những bệnh nhân trước đây đã được cụ cứu chữa hoặc là có quan hệ với cụ. Trong đó có một bài thơ viết bằng chữ hán, nội dung của bài thơ là sự giao lưu giữa các vĩ nhân.Tôi có hỏi cụ:

- Con thấy bài thơ này lạ quá, rất đặc biệt, con không hiểu, người viết bài thơ này là người như thế nào? Cụ có trả lời:

- Ông cụ này là Thần sông Tô Lịch,có đến đây gặp tôi mấy lần.

- Thưa ông, bài thơ đó có nhan đề : ‘Thơ bái tặng Nguyễn chân nhân’ với bút danh là Hoài quang Cư sỹ. Quả thật là bài thơ ấy có một khẩu khí rất lạ,nó thể hiện lòng kính mến đối với cụ."

Ở Trung Quốc những vị thầy cao tăng như vậy rất nổi tiếng. Thành tựu tu tập của cụ đã đạt tới quyền năng sai khiến được thế lực siêu nhiên (trời, rồng, quỷ thần…). Phương pháp chữa bệnh Trì Ấn vào một tờ giấy, cụ đã đạt được thành tựu sử dụng được sự diệu dụng Bảo Ấn của 42 Thủ nhãn Ấn pháp.

Theo HT.Tuyên hoá thì người đã có Bảo ấn này thì có thể sai khiến cá được Diêm vương, khiến cho người chết sống lại. Bản thân HT.Tuyên Hoá cũng đã dùng Bảo Ấn cứu sống được 2 bệnh nhân đã chết  ở Hương Cảng và Mãn Châu. Cụ Trưởng Cần cũng là người đã từng mang lại sự sống cho những người vô phương cứu chữa mà có người tưởng như đã chết.

HT. Tuyên Hoá cho rằng: Nếu quí vị muốn sử dụng được Bảo ấn này thì phải công phu tu trì qua cả bốn mươi hai thủ nhãn. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại. Nhưng để sử dụng được Bảo ấn này, trước hết quí vị phải thành tựu công phu tu tập đã. Nếu công phu chưa thành tựu thì chẳng có kết quả gì. Thế nào nghĩa là thành tựu công phu tu hành?

Cũng giống như đi học. Trước hết, quí vị phải vào tiểu học, rồi lên trung học, rồi thi vào đại học. Rồi cuối cùng có thể được học vị Tiến sĩ. Tu tập để thành tựu Bảo ấn này cũng như đạt được học vị Tiến sĩ vậy. Nhưng là tạm ví dụ vậy thôi, chứ Bảo ấn này không có gì so sánh được.

Chữa bệnh bằng nước lạnh hay một vật dụng khác… ở Việt Nam đã có một số người làm được, nhưng chữa bệnh bằng việc Trì Chú, bắt ấn như cụ Trưởng Cần ở Việt Nam từ trước đến nay chưa từng có ai. Vì lẽ đó mà tôi xin được xưng dương tán thán không những công đức chữa bệnh của cụ mà cả những năng lực thần thông cụ đã đạt được.

Theo HT. Tuyên Hoá Đại Bi Chú và 42 Thủ nhãn Ân pháp là “một pháp âm vi diệu, khiến cho đất bằng hoá thành vàng ròng, đều được trang nghiêm bằng bẩy thứ châu báu. Thật là vi diệu khó thể nghĩ bàn. Quý vị Phật tử đang tu học Phật Pháp nên biết rằng trong 300 năm trở lại đây, không có ai hành trì được bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp và cũng chẳng có ai thông hiểu được các ấn pháp này”.

Một số hiện tượng chữa bệnh khác

Trên mạng có một câu chuyện kể về người cha của ông Hứa Hiếu Lễ ( người dân tộc thiểu số ) cũng có khả năng  chữa bệnh bằng nước lạnh. Chính người con của ông cũng  không biết cha mình đã chữa bệnh cho mọi người bằng phương thức gì.

Chỉ biết rằng, nhiều người điên đã khỏi bệnh dù trước đó đã được đưa đi không ít nơi chạy chữa.  Những người dân truyền tin cho nhau về khả năng kỳ lạ này. “Cha tôi sẵn lòng giúp mà không kèm theo bất cứ một đòi hỏi vật chất nào..." Ông Hiếu Lễ nói.

Hồi còn nhỏ, cha ông Hứa có theo học ông thầy Vườn Luông. Đó là một nhân vật cực kỳ huyền bí sống ở cánh đồng Bo Păn. ông thầy Vườn Luông sống cô độc trong một cái lều sâu trong rừng nơi ít người đi tới. ông thầy này có truyền nghề nhưng không phải ai cũng theo học được bởi sự kỳ lạ trong tính nết và sự huyền bí không phải ai cũng có cơ duyên để tiếp nhận được.

Theo ông Hiếu Lễ nhiều lần cha con ông đã nói chuyện về ông thầy Vườn Luông kỳ lạ. Sau này, ông viết lại: "Ông Vườn Luông là một ông thầy cao tay. Tôi cũng được nghe mẹ kể nhiều về ông thầy Vườn Luông. Đó là một người tài cao đức dày, không mấy học trò theo được, chỉ có cha tôi là người hiền lành nhất, trung thực nhất và rất sáng dạ. Ông Vườn Luông tin yêu cha tôi nhất trong đám học trò. Kể từ đó, ông Vườn Luông truyền hết bí mật cho riêng cha tôi".

Cách chữa bệnh của cha ông Hứa như sau: Thuốc là một chai nước lã trong vắt múc từ dưới mỏ nước mang về. Rồi ông gọi người nhà đốt ba nén nhang mang lên. Ba nén nhang kẹp vào mang tai, ông ngồi thẳng lưng, thẳng cổ như kiểu ngồi tòa sen. Chỉ thấy ông nhắm hờ hai mắt, bất động toàn thân, đó là tư thế ngồi thiền. Không thấy ông bỏ bất cứ vật gì vào chai nước. Khoảng nửa tiếng sau, khi ba nén nhang cháy vừa hết, ông lấy hơi từ lồng ngực khẽ khàng thổi vào chai. Chai nước vẫn trong suốt. Sau đó mang cho người điên uống, dăm ngày sau họ không còn quậy phá nữa. Họ nói năng từ tốn hơn, cử chỉ hành động trở lại bình thường.

Câu chuyện trên cho ta thấy một phần nào cuộc đời ,  phương thức tu luyện, cách chữa bệnh của cha ông Hứa Hiếu Lễ khá tương đồng với các nhà tu hành Phật giáo.

Câu chuyện thứ hai:  Báo CAND có đưa ra một hiện tượng về khả năng chữa bệnh của bà Phú như sau:

Sau một trận ốm và hai lần điều trị bệnh tâm thần tại Thái Nguyên và Hà Nội, bà Phú tự thấy mình có khả năng đặc biệt. Chữa bệnh bằng nước lạnh. Qua lời đồn thổi, người bệnh tìm đến nhờ bà Phú chữa bệnh. Lượng người dân cả tin lui tới phòng khám của bà  theo thời gian gia tăng đáng kể. Có những thời điểm, "phòng khám" chứa tới hàng trăm lượt người. Phương tiện ôtô, xe máy từ các nơi đổ về xếp thành hàng dài ngoài ngõ.

 Cậu cò Phú vốn dĩ làm nghề buôn bán ở các khu chợ của địa phương. Theo lời đồn thổi, cái tên "cậu cò" và khả năng chữa bệnh đặc biệt bắt đầu  xuất hiện sau đợt mắc bệnh tâm thần của bà Phú. "Cậu cò" là tên gọi đứa con của bà Phú bị mất lúc hơn 1 tháng tuổi đang nằm trong bụng nhập vào người bà Phú.

Bà Phú cũng có được một số khả năng chữa bệnh như các vị thiền sư. Nhưng khác hơn là bà Phú chưa từng trải qua tu luyện hay theo học bất kỳ một vị thầy nào. Để có được những năng lực này, có thể từ hai khả năng: một là quỷ thần nhập vào bà. Hai là một tai nạn lớn sau cơn ốm thập  tử nhất sinh có khả năng này. Tôi không giám khẳng định, nhưng những khả năng không qua tu luyện đều không có lợi cho người chữa bệnh. Tôi lấy một sự việc do HT. Tuyên Hoá kể :

Quý vị nhớ rằng loài quỷ Cưu-bàn-trà là một loài quỷ mị, thường gây ra tình trạng hôn mê, tê liệt cho người đang ngủ. Loài quỷ nầy chiếm đoạt thân xác của người đang tỉnh, rồi điều khiển thân, miệng, ý người nầy làm những việc riêng cho chúng. Nó nói qua trung gian người và dành hoàn toàn sự kiểm soát người ấy. Những người bị chiếm thân xác như vậy còn được gọi là xác đồng, hoặc có khi chúng trở thành phù thuỷ  hoặc thầy trừ tà.

Đôi khi ở Trung Hoa, loại xác đồng nầy rất hấp dẫn. Họ có thể cắm cây dao trên đỉnh đầu mà không chết. Loài quỷ mị đang đoạt hồn họ sẽ gỡ lưỡi dao bằng cách dùng một thần chú, thế nên người ấy không đổ một giọt máu. Có người có thể đóng những cây đinh vào bên vai, từ những cây đinh, họ treo những thanh gươm mỗi cây nặng hơn 10 pounds. Họ có thể treo bốn thanh gươm như vậy rồi quay tròn chúng. Xem rất là kinh khủng. Mọi người đều kinh hãi.

Theo HT.Tuyên Hoá, Có một số phái ngoại đạo cũng dùng pháp trì chú Đại Bi vào nước để chữa bệnh và đạt được công hiệu linh ứng. Đó là vì họ có sự trợ giúp của loài thiên ma khiến cho người được lành bệnh tin vào họ, rồi dẫn dắt vào hàng quyến thuộc của thiên ma ngoại đạo. Vì thế, tuy cũng hành trì một pháp môn mà có thiên sai vạn biệt kết quả.

Cho đến nay, vì chưa có một lời giải thích thuyết phục nào nên phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần vẫn là một hiện tượng thần bí đối với nhiều người. Với bài viết này  tôi xin  được thành ý,  tri ân đến Cụ.
Xin được tán thán công đức chữa  bệnh của Cụ. Và xin được vinh danh sự vi diệu, bất khả tư nghì cho các thuyết lý Nhà Phật.

Bí ẩn về người chữa bệnh bằng tâm linh, phần 2

Trong phần tiếp của bài viết, tôi xin được đưa ra một số phương cách chữa bệnh của các vị thiền sư và phương cách chữa bệnh của cụ Trưởng Cần để bạn đọc tham khảo.

Tất nhiên, do duyên nghiệp và căn cơ khác biệt của mỗi người nên trong phương cách chữa bệnh không thể giống nhau một cách hoàn toàn.

Chữa bệnh bằng nước lạnh…

Ấn Quang đại sư, một vị cao tăng thời cận đại ở Trung Quốc, tu hành tinh tấn theo pháp môn Tịnh độ thường tụng Kinh kiêm trì chú Đại Bi.
Đại sư thường gia trì Chú Đại Bi vào nước, gạo hoặc tro sạch để cứu những chứng bệnh mà các vị thầy thuốc khác đều bó tay, hiệu nghiệm lạ lùng.
Có một lần, nơi lầu Tàng Kinh của chùa phát hiện ra vô số mối trắng, đại sư ở trong thất, nghe nói, liền trì Chú vào nước bảo rưới lên loài mối, sau đó tự nhiên chúng  kéo nhau đi mất.

Qua phương các chữa bệnh của Ấn Quang đại sư ta thấy có một sự khá tương đồng với phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần. Trong câu chuyện kể của nhà khoa học Nguyễn Phúc Giác Hải có viết:

 “Vậy thì cụ chữa như thế nào? Cụ lấy ra một miếng giấy, cụ bảo người bệnh đốt miếng giấy ấy trên một chậu nước rồi lấy nước ấy rửa chỗ đau của cơ thể.
Rõ ràng khi thấy hiện tượng đó thì người nào cũng thấy đó là thần bí mà người ta có thể gọi là mê tín dị đoan, thế nhưng khi tôi chụp ảnh người bệnh ấy khi chưa chữa thì đầy những vẩy nến trên cơ thể và sau khi rửa cái nước đó thì sau hai tuần lề nó đã bớt đi rất nhiều.
Trước đó người bệnh đã đi chữa ở nhiều nơi nhưng không khỏi”….

Trường hợp khác: “Cụ nói với một người ngồi gần đấy đưa cho cụ cái khay trong đó có những miếng giấy. Cụ cầm miếng giấy tích năng lượng vào đó rồi cụ bảo đốt đi. Một người cầm miếng giấy đó đốt trên cốc nước rồi tôi uống cái cốc nước đó”.

Trong bài viết này tôi sử dụng khá nhiều những lời thuyết giảng của Hoà Thượng Tuyên Hoá. HT.Tuyên Hoá là một vị cao tăng đắc đạo người Trung Quốc đã chứng ngũ thông, là vị tăng sĩ diễn giải Chú Đại Bi gần với yếu nghĩa kinh và là người rất nổi tiếng trong việc bắt Ấn, kiết Ấn, trì Chú chữa bệnh.

Khi nói về việc dùng nước lạnh chữa bệnh, HT.Tuyên Hoá chỉ phương cách như sau: “Các vị xuất gia khi gặp người bệnh, trì Chú này vào trong ly nước, cho người bệnh uống thì có thể được khỏi bệnh.
Để ly nước trì chú Đại Bi có được năng lực như vậy, quý vị không cần phải trì tụng toàn văn bài chú này, mà chỉ cần trì tụng câu Hô lô hô lô hê rị năm lần rồi dùng tay kiết ấn ba lần búng vào phía trên ly nước. Rồi trao cho người bệnh uống sẽ được khỏi hẳn

Theo sự giải thích của HT.Tuyên Hoá thì câu Chú Hô lô hô lô hê ri (trong Chú Đại Bi) chính là Bảo bát thủ nhãn ấn pháp, cũng chính là ấn pháp thứ ba trong số bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp. Ấn pháp này có công năng giải thoát cho chúng sinh khỏi những tai ương bệnh hoạn.
Với phương pháp chữa bệnh theo kiểu trì Chú , Kinh Bổn Nguyện Dược Sư Lưu Ly Quang có đoạn : “Ông Mạn Thù này : Thấy ai nam, nữ nếu có bệnh khổ thì nên nhất tâm, vì người bệnh ấy, tắm gội sức  miệng sạch rồi tụng chú 108 lượt vào thức ăn, hoặc vào vị thuốc, hoặc  vào nước lọc, không có vi trùng rồi đem cho uống thì bệnh khổ gì cũng đều tiêu hết”.

Theo Mật tông giáo thì, Thủ Ấn là  một dạng ngôn ngữ đặc thù của bàn tay do nguyện lực và nhân duyên của chư Phật, Bồ Tát hay những vị đã giác ngộ phát nguyện. 

Hành giả khi kết ấn tương đồng với thủ ấn của một vị Phật, Bồ Tát hay một vị nào khác thì sẽ sản sinh ra một năng lượng tương ứng hòa nhập vào thân tâm hành giả như sự cảm nhận của chính đức Phật, Bồ Tát đã cảm nhận vậỵ.
Phật, Bồ tát thể hiện phương tiện độ sinh của Ngài bằng vào uy lực gia trì. Gia trì về ba phương diện, mà thuật ngữ gọi là “Tam mật du-già”, tương xứng theo ba hành nghiệp của một chúng sinh: thân, miệng và ý.

Sự gia trì, tức uy lực hỗ trợ của Phật, được thể hiện nơi thân của một chúng sinh qua các tư thế ngồi và các thủ ấn, nghĩa là các ngón tay của hai bàn tay giao nhau trong một tư thế nào đó đã quy định.

Gia trì nơi miệng được thể hiện qua sự tụng niệm các chân ngôn. Ý mật gia trì nhờ sự quán tưởng về hình tướng Phật, hay các văn tự theo lối viết Brahmì, mà trong Phật giáo gọi là tự mẫu tất-đàm…

Chữa bệnh bằng việc viết một nội dung hay ký tự vào một tờ giấy

Hoà Thượng Tuyên Hoá cũng kể rằng, ở Trung Quốc nhiều người đều biết có một vị Tiên nhân, biết sử dụng một ấn chú gọi là “Phiên thiên ấn”. Bồ tát Quán Thế Âm gọi là “Bảo ấn” Chính là Tát bà tát bà trong Chú Đại Bi.
Khi luyện công phu tu tập thành tựu rồi, nếu có người vừa mới chết hoặc sắp chết, quý vị chỉ cần trì ấn này vào một tờ giấy, và viết vài dòng cho Diêm vương: “Hãy tha cho người này sống lại ngay. Hay hãy tha cho anh ta trở về dương gian”.
Diêm vương không dám từ chối. Diệu dụng của Bảo ấn có thể giúp cho người chết sống lại.
Vì sao vậy? Vì quí vị đã có được Bảo ấn này cũng như ấn của vua vậy. Trên chiếu thư có ngọc ấn của vua thì khắp thiên hạ, ai có trách nhiệm gì cũng phải tuân theo chiếu thư mà thi hành, không ai dám chống lại.
Với Bảo ấn, quí vị có thể làm lợi lạc, an vui cho mọi loài chúng sinh. Quí vị có thể chỉ bảo cho họ biết sự lợi lạc để phát nguyện hành trì. Và sẽ đạt được sự an lành. Vì vậy nên gọi là ‘Nhất thiết lợi lạc’.

Việc chữa bệnh bằng việc trì ấn vào một tờ giấy với một nội dung hoặc một ký tự nhất định rồi đốt đi theo phương cách trên ta thấy không khác nhiều so với phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần.

Hầu hết, những bệnh nhân được cụ chữa đều theo phương pháp này. Với phương cách này cụ có thể chữa được bệnh cho nhiều bệnh nhân ở rất xa ( Đức , Tiệp, Canada…) mà  không cần bất kỳ một loại thuốc nào hay một trường năng lượng nào.
Có rất nhiều bệnh nhân được cụ chữa theo phương pháp này. Bài viết có hạn, tôi xin được trích dẫn một số trường hợp về phương cách chữa bệnh này của cụ.
Tôi có lên thưa lại với cụ thì cụ lại cho một mảnh giấy mang về, cụ dặn để trong người cho cô ấy yên tâm,cho thần kinh ổn định.
- Thưa ông, xin ông cho biết mảnh giấy ấy như thế nào?
- Mảnh giấy đó chỉ bằng cái bao diêm thôi, cụ viết một chữ vào đấy, sau đó cứ mỗi một tuần là tôi lên xin cụ, khoảng 4 tháng sau thì nhà tôi đã có thể tự lên trên cụ một mình và khoảng gần một năm thì nhà tôi khỏi hẳn."

Trường hợp khác: “Tôi lên cụ, cụ cho mảnh giấy đề chữ sót rau, thế là hôm sau cháu khỏi, đến bệnh viện cũng phải ngạc nhiên. Cháu nội tôi bị chàm, cụ cho miếng giấy đặt lên trán, thế là khỏi. Đúng là một sự kỳ lạ….”.

Qua lời kể của các bệnh nhân được cụ chữa thì họ chỉ nói là cụ viết một ký hiệu nào đó trên một tờ giấy nhỏ, sau đó đưa cho người bệnh đem về đốt hoặc dán lên chỗ đau, sau một thời gian bệnh nhân khỏi bệnh.
Trước khi cụ đưa tờ giấy đó, sau khi người bệnh mang về, cụ làm gì không ai biết được. Tôi chưa thấy một tư liệu nào nói về vấn đề đó.

Với phương cách chữa trị bệnh của cụ Trưởng Cần, hiện nay có người cho  rằng, khả năng là Cụ sai “âm binh” hoặc một thế lực siêu nhiên chữa bệnh.
Đây là một dự đoán không phải là không có cơ sở. Nếu dựa theo thuyết lý Phật đạo ta sẽ thấy người chữa bệnh cho cụ chính là những chúng sinh phát tâm nguyện gia bị, hộ trì cho hành giả phát tâm tụng kinh, trì Chú.

Trong Kinh Đà Ra Ni, Bồ Tát Quán Thế Âm nói: “Chúng sinh nào tụng trì thần chú này, có thể trị lành tám muôn bốn ngàn thứ bệnh ở thế gian, hàng phục các thiên ma, ngoại đạo, sai khiến được tất cả quỷ thần…
Nếu hành giả có thể tụng trì đúng pháp, khởi lòng thương xót tất cả chúng sinh, lúc ấy ta sẽ sắc cho tất cả thiện thần, long vương, kim cang mật tích thường theo ủng hộ, không rời bên mình, như giữ gìn tròng con mắt hoặc thân mạng của chính họ…
Các vị thiện thần này cùng thần long vương, thần Mẫu Nữ đều có 500 đại lực dạ xoa làm quyến thuộc, thường theo ủng hộ người thọ trì thần chú Đại Bi. Long vương hóa làm người lành chỉ dẫn lối”.

Trong Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bổn nguyện, đức Phật nói có 12 vị đại tướng Dược Xoa mỗi vị đầu có bẩy nghìn Dược Xoa quyến thuộc đi theo đều thề nguyện hộ trì, hộ vệ những người thọ trì Kinh Dược Sư.

Nếu có người nào thọ trì danh hiệu Đức Thế Tôn Dược Sư Quang Lưu Ly Như Lai cung kính cúng dàng. Quyến thuộc chúng con hộ vệ người ấy, khiết cho giải thoát hết thảy khổ nạn, có cầu nguyện gì đều được đủ cả, hoặc có ai cầu thoát khỏ bệnh tật, ách nạn cũng nên đọc kinh này.
Lấy chỉ ngũ sắc mà kết thành chữ tên của chúng con - các vị Đại tướng Dược Xoa được như nguyện rồi sau hãy cởi ra.”

Những chúng sinh đó là : Thiện thần, Long vương, Kim cang mật tích, đại lực Dược Xoa … Đó là những chúng sinh trong 10 pháp giới nhưng mắt người không nhìn thấy được. Đó cũng là những thế lực siêu nhiên có mặt khắp nơi trong cõi Ta Bà.
Hiện tượng chữa bệnh của các vị thiền sư và cụ Trưởng Cần thể hiện sự vi diệu, bất khả tư nghì của các Kinh, Chú Phật.

Cái vi diệu, bất khả tư nghì đó đã trở thành siêu tưởng, thần bí, không thể giải thích được đối với trí tuệ thế gian. Vì sao vậy? Vì trí tuệ thế gian chỉ tiếp nhận được cái hữu hạn thông qua nhục nhãn của con người nên không thể lĩnh hội được cái vô hạn của vũ trụ mà chỉ có trí tuệ xuất thế gian mới nhìn thấu được.

Tôi nhớ, có một lần tôi kể cho một người bạn về hiện tượng dấu hiệu của người được vãng sinh lên thế giới Tây Phương Cực lạc. Sau khi chết thân thể nóng ấm như người còn sống, khuôn mặt trang nghiêm, thanh thoát. Trạng thái đó kéo dài 3 – 7 ngày tuỳ theo nghiệp lực của mỗi người.

Người bạn đó bảo tôi là phi vật lý, hoang đường và cho đó là những trò lừa bịp của Phật giáo. Đó là cái nhìn của trí tuệ thế gian còn  đối với những Phật tử theo Tịnh Độ Tông thì đó là bình thường và thực tế sau khi chết rất nhiều người tu theo pháp môn này có hiện tượng như vậy.

Sau khi giải thích sự diệu dụng của Chú Đại Bi và 42 Thủ nhãn Ấn pháp  HT. Tuyên hoá đã nói: “Những điều tôi phân tích trên đây có thể những bạn đọc mới phát sơ tâm bồ tát thất thật khó tin và nghi ngờ. Đức Phật đã hiểu điều đó vì căn cơ của chúng sinh Nam Diêm Phù Đề không dễ gì lãnh hội được những điều uyên thâm, vi diệu trong kinh điển Phật”.
Đức Phật Thích Ca Mầu Ni trong Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Bổn nguyện hiểu được trí tuệ thế gian của con người cũng thốt lên rằng: “Như ta khen ngợi công đức bổn nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đó là những chỗ hành vi rất sâu của các đức Phật khó hiểu suốt lắm, ông có tin không ? …Ông A-Nan ơi ! làm được thân người đã là khó lắm nghe được danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thời lại khó hơn”.
Nghiên cứu tiếp sự diệu dụng của Bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp, HT.Tuyên Hoá nói rằng “Nếu hành giả  kết một sợi dây ngũ sắc rồi hành trì quyến sách ấn pháp vào sợi dây ấy. Thành tựu rồi thì khi phóng sợi dây này ra, các loài yêu ma quỷ quái, ly mỵ vọng lượng đều bị trói chặt. Không thể nào chạy thoát được.
Từ đó sẽ tìm cách giáo hóa cho các loài ấy hồi tâm hướng thiện. Đây là diệu dụng của ấn pháp này. Mới xem qua thì có vẻ bình thường nhưng công năng thật khó lường”.

Các phương pháp chữa bệnh của Phật giáo không phải ai cũng làm được. Ngoài việc luyện công tu hành, hành đạo Bồ Tát, vị thầy thuốc phải có nhân duyên với người bệnh.
Có khi cùng một loại bệnh, bệnh nhân không có nhân duyên với thầy thuốc thì bệnh nhẹ trở thành bệnh năng, bệnh nặng không những chữa không khỏi.

Theo HT.Tuyên Hoá:  Tất cả đều tùy thuộc vào nhân duyên giữa hành giả và người bệnh. Nếu quý vị có nhân duyên sâu dày với người bệnh, thì khi họ uống xong nước có trì chú Đại Bi liền được khỏi bệnh. Còn nếu người bệnh không có duyên với hành giả, thì dù họ có uống nước đã trì chú, nhưng vì họ không có niềm tin ở Bồ tát Quán Thế Âm, thì bệnh họ không được lành hẳn.

Những người vốn đã tạo nghiệp chướng sâu dày, nếu được uống nước đã trì chú vào thì không đủ tạo nên nặng lực để chuyển hóa bệnh của họ. Còn nếu người có nghiệp nhẹ khi uống nước đã trì chú vào thì có thể phát sinh năng lực to lớn, tạo ra một năng lực cảm ứng đạo giao. Chính năng lực này đã chữa lành bệnh.

Viết đến đây có thể nhiều người sẽ đặt ra câu hỏi, hiện nay có một số người chữa bệnh theo phương pháp của cụ Trưởng Cần nhưng đâu có thấy tu luyện gì. Vì sao phương pháp chữa bệnh của cụ lại là của các thiền sư Phật giáo mà không phải các đạo giáo khác….
Để giải thích vần đề này tôi xin tiếp tục ở phần 3.
Đây là tờ đạo mà cụ dùng để đưa cho bệnh nhân đốt và để lên chổ đau
Bảo Bát Thủ nhãn Ấn pháp . Cầm bình báu - Chân ngôn : Án –, chỉ rị, chỉ rị, phạ nhựt-ra, hồng phấn tra

Bí ẩn về người chữa bệnh bằng tâm linh, phần 1

Như một cơ duyên, trong một lần đến thăm nhà chị đồng nghiệp cơ quan cũ, tôi được biết đến một phương pháp chữa bệnh khá đặc biệt của một người thầy thuốc, không dùng thuốc, chữa bệnh từ xa, chữa bằng nước trắng…. vị thầy thuốc đó có tên là Nguyễn Đức Cần, mọi người còn gọi là cụ Trưởng Cần.

Phương pháp chữa bệnh của cụ cho đến  nay vẫn là một bí ẩn đối với mọi người. Các nhà khoa học cho đó là cách chữa bệnh bằng thôi miên, tự ám kỷ. Chữa bằng trường sinh học …tất cả mới chỉ dừng ở mức nghiên cứu. Nhiều người cho rằng, nó huyền bí không thể hiểu được vì nó xa lạ với các quy luật vật lý thông thường.

Khi tìm hiểu về cuộc đời và con người cụ, tôi chợt nhận ra rằng, cách chữa bệnh của cụ so với cách chữa bệnh của một số vị thiền sư đạt đạo trong Phật giáo có sự tương đồng. Ở thời của cụ, Phật giáo được rất ít người biết đến nên nhiều người cho rằng, phương pháp chữa bệnh đó là bịp bợm, dùng bùa ngải, yêu thuật chữa bệnh…

Ngày nay, Phật giáo đã được truyền bá sâu rộng, các giáo lý Nhà Phật ngày càng  được khoa học chứng minh sự chính xác, tính thực tiễn của nó. Sự uyên thâm, vi diệu, bất khả tư nghì trong các Kinh, Chú của các đức Phật đã được thể hiện qua một số năng lực  thần thông của các vị thiền sư.

Hiện nay, chúng ta lại có thêm một nhân chứng sống nữa đó là  sự hiện thân, cách chữa bệnh của cụ Trưởng Cần - Vị thầy thuốc hành đạo Bồ tát.  Vì sao tôi xưng dương tán thán công đức của cụ như vậy, một lần nữa xin được dùng giáo lý Phật đạo giải thích.

Sống thanh cao, hết lòng vì người bệnh

Những tư liệu về cuộc đời cụ Trưởng Cần có khá nhiều. Nhưng chủ yếu  nói về tiểu sử, tấm gương đạo đức và phương cách chữa bệnh khác biệt, khá ly kỳ  của cụ. Để bạn đọc hiểu về con người cụ, tôi xin trích dẫn một chút đoạn về cuộc đời và con người cụ :

Cụ Nguyễn Đức Cần sinh ngày 29-12-1909 (Kỷ Dậu) ở thôn Đại Yên - Ngọc Hà - Quận Ba Đình – Hà Nội. Cụ là người có học vấn khá, thông thạo tiếng Pháp. Cụ hoạt động cách mạng trước năm 1945. Đã từng là đại đội trưởng đội Lam Sơn, bảo vệ Hà Nội sau ngày toàn quốc kháng chiến.

Các cụ già trong làng kể lại rằng, khi bà cụ Khế (Hoàng Thị Khế - mẫu thân ) sinh người con trai thức năm vào đêm 30 tết thì đêm hôm ấy  bỗng trời sáng trưng như có trăng rằm. Phải chăng đó là một điềm lành báo rằng có một bậc kỳ tài xuất thế để giúp đời.

Khi cụ Tổng ông (Nguyễn Đức Nhuận) bị bệnh trong bụng nổi lên một cái u to như quả trứng không thầy thuốc nào chữa khỏi thì Cụ Tổng bà đã mời một vị thầy về làng chữa. Người làng không hiểu ông thầy đó chữa bệnh như thế nào nhưng chỉ sau đó vài hôm thì cụ Tổng ông đã khỏi bệnh.

Thật là một sự thần kỳ. Nhưng điều mà gia đình cụ thêm khâm phục là vị thầy đó không nhận tiền thù lao chữa bệnh mà chỉ nói chữa bệnh làm phúc thôi.
Cụ Tổng bà quyết định cho con trai theo học vị thầy đó vì ông thầy quá giỏi lại là người đạo cao đức trọng… Cậu Nguyễn Đức Cần đã theo vị thầy đó đi đến những đâu, đã học như thế nào, đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn.

Sau này cụ Cần có kể rằng: Cụ đã đi đến vùng Sơn Tây – Ba Vì, rồi đến Thác Bờ Hoà Bình, qua các vùng miền núi Tây Bắc và sang cả vùng Thượng Lào, Phong Sa lỳ…
Thời gian bao lâu không thấy nói nhưng có một chi tiết là khi ra đi chỉ là một cậu bé, trở về làng đã là một chàng trai khôi ngô tuấn tú.

Từ những năm 40 cụ Trưởng Cần đã bắt đầu chữa bệnh giúp cho nhiều người. Lúc đầu chữa trị cho những người trong họ tộc thân quen về sau cụ bắt đầu nhận chữa rộng rãi cho nhiều người.

Phương pháp chữa bệnh của cụ rất đặc biệt, người bệnh hoặc người nhà bệnh nhân đến gặp cụ, nếu được cụ nhận lời, cụ sẽ cho một mảnh giấy có chữ ký của cụ mang về. Cụ chữa bệnh bằng nước trắng, dùng giấy có chữ ký  đốt hoặc gián lên chỗ đau. Cụ chữa bệnh không dùng thuốc và có thể chữa bệnh từ xa. Cụ chữa nhiều loại bệnh như: điên, ung thư, đau dạ dầy, sơ gan cổ trướng, máu trắng thấp khớp, câm điếc, liệt  tay,  hen….
Ngày 13-7-21983, cũ Trưởng Cần đã mất đi trong sự tiếng thương vô hạn của nhiều người. Một cái chết nhẹ nhàng, bình thản mà cụ đã biết trước đó nhiều ngày. Nhiều người coi cuộc đời của cụ như một vị thánh nhân cứu thế.

Với khả năng đặc biệt của mình, cụ Trưởng Cần đã chữa cho không biết bao nhiêu bệnh nhân, kể cả những người thập tử nhất sinh, vô phương cứu chữa. Cụ đã mang lại cuộc sống cho rất nhiều người, mang lại hạnh phúc, nụ cười cho gia đình họ.

Cụ chữa bệnh không những không lấy tiền mà cụ còn giúp bệnh nhân thấy được những lỗi lầm của họ để sửa tính nết. Tấm gương của cụ  thật cao đẹp vừa chữa khỏi bệnh, vừa khuyên bảo “đức làm người”.
Cụ Trưởng Cần đã dùng phương cách nào để chữa bệnh. Cơ sở của những phương pháp đó là gì?

Luyện công tu hành, bắt ấn, trì Chú có thể chữa được bệnh

Hiện nay, các nhà khoa học vẫn nghiên cứu phương cách chữa bệnh của cụ theo chiều hướng  trường năng lượng… Theo lời kể của một nhà báo.  Trong một lần phỏng vấn, khi được hỏi về phương cách chữa bệnh của cụ, Cụ Trưởng Cần đã nói: “Nếu nghiên cứu theo phương pháp trường năng lượng…là các anh đã đi sai đường rồi. Hãy lên núi mà học … Các anh đã mang cái hữu hạn để nghiên cứu, giải thích cái vô hạn”.
Khi nói chuyện với nhà khoa học Nguyễn Phúc Giac Hải cụ nói : “Vâng thưa ông, tôi chữa bệnh bằng cái đầu của tôi, nhưng người ta cứ bảo tôi là phù thuỷ”.

Cũng như những năng lực, khả năng của các nhà ngoại cảm, phương cách chữa bệnh của cụ nếu dùng khoa học để giải thích thì mãi mãi sẽ không giải thích được. Mãi mãi sẽ không tiếp cận được đến chân lý. Không thể dùng quy luật vật chất để giải thích quy luật về tâm linh. Cũng như không thể dùng trí tuệ hữu hạn mắt thường nhìn thấy để giải thích cái vô hạn của thế giới tam thiên đại thiên.

Chỉ có trí Không được phát sinh từ thiền định mới có thể nhìn thấu rõ cái vô hạn đó. Đó cũng chính là thuyết lý thuộc  về đạo Phật.

Hiện nay, nhiều người gọi cụ là Nhà văn hoá tâm linh. Vì chưa được tiếp xúc với cụ Trưởng Cần, tư liệu về cụ chủ yếu thiên về cuộc sống và phương pháp chữa bệnh, trong bài viết này tôi xin được mang đến bạn đọc có một góc nhìn khác về cuộc đời và con người cụ Trưởng Cần.

Trong câu nói được trích dẫn trên đây, ta thấy rõ một điều, cơ sở phương pháp chữa bệnh của cụ không phải là dùng năng lượng trường sinh học cơ thể người, cũng không phải dùng bùa ngải, yêu thuật để chữa bệnh. Kiến thức cụ tiếp nhận được là từ một vị thầy thuốc tu hành trên núi.

Trong phần tiểu sử của cụ có đoạn: Sau năm 1950, từ vùng núi trở về, Cụ sống tại thôn Đại Yên như một nông dân trồng hoa. Việc Cụ tu luyện thế nào không ai được biết. Người ta đồn rằng, Cụ đã đắc đạo tại đền Và – Sơn Tây (đền thờ Thánh Tản Viên). Cụ cũng không hề xác nhận hoặc thanh minh điều đó.

Cụ Trưởng Cần cũng từng nói: Cách chữa của tôi không học một trường nào cả. Từ khi còn ít tuổi, tôi đã phải bỏ nhà ra đi, mặc dù nhà rất giàu. Tôi phải chịu khổ lên rừng mà học mới có thầy dạy, phải học khó lắm.

Trong Phật giáo chúng ta thường nghe nói đến các vị cao tăng có thể làm nên rất nhiều điều phi thường như : Hô mưa gọi gió, thần thông, bắt ấn chữa bệnh… Vì sao họ đạt đến những trạng thái siêu vật lý như vậy, đó là do công phu tu hành, trì Chú…mà có được. Để có thể đạt được những khả năng siêu việt đó các hành giả tu hành phải có một sự tinh tấn nỗ lực rất lớn.

Theo phái Mật Tông, bí mật thân thể của con người và vũ trụ , trời đất có một sự tương quan liên hệ với nhau rất mật thiết . Nhưng vì đa số con người , không có luyện tập để có đại trí tuệ  và không được thông qua sự luyện tập hợp lý, nên vĩnh viễn không thể phát huy được, sự tác dụng tương hỗ nay. Vì thế đã không khai mở được sự bí mật tương quan của cơ thể con người với vũ trụ.

Có nhiều phương pháp luyện tập, truyền thống bí mật  được lưu truyền từ ngàn xưa có thể giúp con người nhanh chóng, luyện tập trong một khoảng thời gian ngắn. Có thể giúp con người liên lạc, cảm ứng được với các Thần Linh và kết hợp con người với vũ trụ lại làm một, tiến đến đưa con người đến quả vị Thánh và Phật .

Trong Phật giáo, các vị Chư Phật, Bồ Tát không phải là những thánh nhân sáng tạo ra vũ trụ mà là người thầy dẫn đường, vị thầy thuốc chữa bệnh khổ  về thân tâm cho chúng sinh. Nếu Kinh Phật là phương cách hướng dẫn chữa bệnh thì các thần Chú chính là thuốc chữa bệnh.

Sự vi diệu bất khả tư nghì của đạo Phật chính là các Chú. Tà ma ngoại đạo cũng sử dụng các câu thần Chú của đạo Phật rất nhiều. Các Chú rất linh nghiệm, nhưng không phải ai trì Chú cũng có được linh ứng hiệu nghiệm. Để đạt được đến mức đó không những phải tu hành đạt mức nội lực thâm sâu mà còn phải thực hành đạo Bồ Tát.

Theo Hoà thượng Tuyên Hoá thì, dùng nước Đại Bi để chữa bệnh cho người là một pháp môn thực hành Bồ tát đạo. Nhưng quý vị muốn tu pháp này trước hết phải thực hành mọi hạnh nguyện của hàng Bồ tát. Phải luôn luôn giữ tâm niệm “vô ngã”, “vô nhân”. Nghĩa là trong tâm không còn bốn tướng: ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả nữa. Quý vị đừng nghĩ rằng: “Tôi chữa lành bệnh của chúng sinh được, khi tôi trì chú Đại Bi, tôi tạo ra được sự cảm ứng vô cùng lớn lao”.

Sự linh nghiệm của các Thần Chú

Phật pháp bao la, thiên binh vạn quyển, có rất nhiều câu thần Chú. Duyên khởi của các Chú thường được xuất phát từ sự quán chiếu của các đức Phật, Bồ Tát về sự khổ về thân, tâm của các chúng sinh mà các ngài tuyên thuyết.

Trong Kinh Đà Ra Ni, Bồ tát Quán Thế Âm đã nói : “Đức Như Lai vừa nói lời ấy xong, Quán Thế Âm Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục nghiêm chỉnh, chắp tay hướng về Phật mà thưa rằng: 'Bạch đức Thế Tôn, tôi có chú Đại Bi tâm Đà Ra Ni nay xin nói ra, vì muốn cho chúng sinh được an vui, được trừ tất cả bệnh, được sống lâu, được giàu có, được diệt tất cả nghiệp ác tội nặng, được xa lìa chướng nạn, được thành tựu tất cả thiện căn, được tiêu tan tất cả sự sợ hãi, được mau đầy đủ tất cả những chỗ mong cầu. Cúi xin Thế Tôn từ bi lắng nghe. 

Đức Phật bảo: Thiện nam tử! Ông có tâm đại từ bi, muốn nói thần chú  để làm lợi ích an vui cho tất cả chúng sinh. Hôm nay chính là lúc hợp thời, vậy ông nên mau nói ra, Như Lai tùy hỉ chư Phật cũng thế

Duyên khởi của thần Chú Dược Sư, đức Phật Thích-ca Mâu-ni đã dạy cho Mạn Thù Thất Lợi Bồ-tát trong kinh Dược Sư Bổn nguyện công đức: “Này Mạn Thù Thất Lợi! Đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai khi chưa chứng được đạo quả Bồ-đề, do sức bổn nguyện mà Ngài quan sát biết chúng hữu tình gặp phải các thứ bệnh khổ như da vàng, gầy ốm, cảm nhiệt, thương hàn, v.v….

Vì muốn những bệnh khổ ấy được tiêu trừ và lòng mong cầu của chúng hữu tình được mãn nguyện, nên Ngài liền nhập định tên là Định diệt trừ tất cả các khổ não cho chúng sinh. Khi Ngài nhập định, từ trong nhục kế phóng ra luồng ánh sáng lớn, trong luồng ánh sáng ấy nói chú Đại Đà-la-ni

Hiện nay các vị tăng sĩ  thường dùng hai Chú là : Đại Bi Tâm (Kinh Đà Ra Ni) và Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Bổn nguyện công đức để chữa bệnh thân và tâm cho chúng sinh. Đi sâu vào phương cách trì Chú chữa bệnh của hai bộ Kinh này ta sẽ tìm ra được lời giải cho phương pháp chữa bệnh của cụ Trưởng Cần.

Trong Kinh Đà Ra Ni,  khi nói về Chú Đại Bi Tâm, Phật bảo ngài A Nan: “Ông nên dùng lòng trong sạch tin sâu mà thọ trì môn Đại Bi Tâm đà ra ni này và lưu bố rộng ra trong cõi Diêm Phù Đề, chớ cho đoạn tuyệt. Đà Ra Ni này có thể làm lợi ích lớn cho chúng sinh trong ba cõi.

Tất cả bệnh khổ ràng buộc nơi thân, nếu dùng Đà Ra Ni này mà trị thì không bẹnh nào chẳng lành, dùng đại thần Chú này tụng vào cây khô, cây ấy còn được sinh cành lá, trổ bông, trái, huống chi là chúng sinh có tình thức ư? Nếu thân bị đại bệnh, dùng Chú này mà trị không lành, lẽ ấy không bao giờ có”.

Theo Hoà Thượng tuyên Hoá  thì Đại Bi Chú Đà Ra Ni  từ cầu 24 đến câu 74 chính là bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp diệu dụng. Khi hành giả hành trì bốn mươi hai thủ nhãn ấn pháp này được gọi là “tác pháp”. “Như ý” nghĩa là tùy theo tâm nguyện đều được như ý. Khi hành giả tu tập thành tựu ấn pháp này rồi, thì mọi việc đều được như tâm nguyện nên gọi là “Như ý”.

Khi một người tu tập đến “Tác pháp mạc ly ngã” thì ấn pháp không rời khỏi hành giả và hành giả không rời khỏi ấn pháp. Pháp và ngã là một. Thế nên chẳng có pháp và cũng chẳng có ngã, pháp chấp và ngã chấp đều không. Thủ nhãn ấn pháp này có công năng mang lại sự an vui như ý đến cho hành giả, khiến cho các thứ bệnh tật, chướng nạn đều được tiêu trừ.
Còn tiếp

Chủ Nhật, 13 tháng 8, 2017

Lục phủ - Ngũ tạng là gì?


 **

*Sơ lược:

Ngũ: Năm, thứ năm. Tạng: bộ phận trong vùng ngực và bụng. Lục: sáu. Phủ: bộ phận trong vùng bụng.

- Ngũ tạng là năm bộ phận quan trọng trong vùng ngực và bụng của con người. Ngũ tạng gồm: tâm, can, tỳ, phế, thận.

Tâm là tim, can là gan, tỳ là lá lách, phế là phổi, thận là hai quả cật.
- Lục phủ là sáu bộ phận quan trọng trong vùng bụng của cơ thể con người. Lục phủ gồm: Vị, đảm, tam tiêu, bàng quang, tiểu trường, đại trường.



Vị là bao tử, đảm là mật, bàng quang là bọng đái, tiểu trường là ruột non, đại trường là ruột già. Tam tiêu là ba tiêu: thượng tiêu là miệng trên của bao tử, trung tiêu là khoảng giữa bao tử, hạ tiêu là miệng trên của bàng quang.

Ngũ tạng và Lục phủ của con người cũng được phân ra theo Ngũ Hành:

- KIM:Phổi,Ruột già.
- THUỶ:Thận,Bàng quang.
- MỘC:Gan,Mật
- HỎA:Tim,Ruột non.
- THỔ:Lá lách,
Dạ dày.

* KHÁI NIỆM :

Căn cứ vào hoạt động của cơ thể con người lúc bình thường và lúc có bệnh người xưa qui nạp thành những nhóm chức năng khác nhau, rồi đặt tên cho các cơ quan trong cơ thể gọi là Tạng Tượng ( hiện tượng của tạng ).

Nhóm chức năng có nhiệm vụ chứa đựng, chuyển hoá gọi là Tạng, gồm có : Tâm. Can, Tỳ, Phế, Thận, Tâm Bào.

Nhóm chức năng có nhiệm vụ thu nạp và chuyễn vận gọi là phủ ,gồm có : Đỏm ( mật ), Vị ( dạ dày ), bàng quang, tiểu truòng ( ruột non ), Đại truòng ( ruột già ), tam tiêu ( bao ngoài của tạng-phủ ).

Ngoài ra còn có các hoạt động khác như : Dinh, Vệ, Khí, Huyết, Tinh, Thần, Tân, Dịch.


CÁC PHỦ:

A. ÐỞM :
- Bài tiết ra chất mật.
- Chủ về sự quyết đoán và sự dũng cảm.

B. VỴ :
- Chứa đựng và nghiền nát thức ăn.
- Luôn có biểu hiện về bệnh lý ở răng miệng, sâu răng, hôi miệng, loét miệng thường do vị nhiệt.

C. TIỂU TRƯỜNG :
- Nhận thức ăn từ vị đưa xuống hấp thụ các chất tinh khiết biến thành huyết và tân dịch, dinh dưỡng các tạng, phủ, phân thanh giáng trọc, đưa các chất cặn bã xuống Ðại Trường và Bàng Quang.
D. ÐẠI TRƯỜNG :
Truyến đạo để bài tiết cặn bã.

Ð. BÀNG QUANG :
Tiếp với thận để bài tiết nước tiểu.

E. TAM TIÊU :
Là nhóm chức năng quan giữa các tạng,phủ trên và dưới với nhau. Sự khí hoá tam tiêu được chia làm ba phần.
- Thượng tiêu : từ miệng đến tâm vị có các tạng Phế Tâm.
- Trung tiêu : Từ tâm vị đến hậu môn vị có tạng Tỳ.
- Hạ tiêu : Từ môn vị đến hậu môn có các tạng Can và Thận.



Thứ Tư, 2 tháng 8, 2017

Khỏi bệnh và khỏe mạnh với 10 phút tập Đạt Ma dịch cân kinh

Khi công Đạt Ma dịch cân kinh ngày nay được rất nhiều người tập nhằm tăng cường sức khỏe và chữa bệnh. Với những động tác thật đơn giản, các bạn chỉ cần dành từ 10 phút đến 30 phút mỗi ngày để tập, hiệu quả của bài tập đối với sức khỏe rất tích cực.
Năm 917 (sau Tây lịch), Đạt Ma Tổ Sư từ Ấn Độ sang Trung Quốc thuyết pháp và truyền giáo, sau ở lại Trung Sơn, Hà Nam, xây dựng chùa Thiếu Lâm, đã có nhiều đệ tử nhập môn học Phật để mai sau đi truyền giáo. Ông nhận thấy nay đem một tín ngưỡng đi truyền tụng có khi trái với tín ngưỡng của dân bản xứ, dễ xảy ra xung đột. Do vậy các đệ tử của ông vừa lo học lý thuyết Phật Pháp vừa phải luyện võ để tự vệ (Môn phái Thiếu Lâm xuất hiện và tồn tại đến ngày nay).
Nhiều người xin nhập môn nhưng thể lực kém, không thể luyện võ được, Tổ Sư bèn truyền đạt một phương pháp luyện tập được gọi là Đạt Ma Dịch Cân Kinh để chuyển biến thể lực yếu kém thành mạnh khỏe. Cách tập đơn giản nhưng hiệu quả to lớn vì tiêu trừ được các bịnh tật hiểm nghèo.
Ngày nay, phép chữa bệnh theo Dịch cân kinh được gọi là phất thủ liệu pháp. Đây là phương pháp khí công chữa bệnh bằng cách lắc tay đơn giản, dễ nhớ, dễ tập và có hiệu quả cao đối với nhiều bệnh mạn tính khác nhau, từ suy nhược thần kinh, hen suyễn đến bệnh tiêu hóa, tim mạch, sinh dục…
Tìm nơi thoáng mát, không khí trong lành. Mặc quần áo rộng rãi. Đứng thẳng, hai chân dang ra song song ngang vai, các ngón chân bám chặt vào mặt đất, hậu môn nhíu lại, bụng dưới hơi thót, ngực hơi thu vào, vai xuôi tự nhiên, hai mắt khép hờ, đầu lưỡi chạm nướu răng trên, tâm ý hướng về Đan điền (dưới rốn khoảng 3 phân).
dich can kinh
Hai cánh tay, bàn tay và các ngón tay duỗi thẳng tự nhiên. Hai cánh tay hơi cong ở khuỷu. Đưa hai cánh tay về phía trước, đồng thời hít vào. Dùng lực vẫy hai cánh tay ra phía sau đến hết tầm và thở ra. Khi hết tầm tay ra phía sau, hai cánh tay theo đà của lực quán tính trở về phía trước, đồng thời với hít vào. Sau đó lại tiếp tục vẫy tay ra phía sau. Một lần hít vào, một lần thở ra là một cái lắc tay. Làm liên tục nhiều cái. Tối thiểu 500 cái một lần tập. Mỗi ngày có thể tập hai lần. Nếu để chữa bệnh thì mỗi lần tập phải thực hành từ 1.500 cái trở lên.
Động tác lắc tay phải bền bỉ, đều đặn, nhẹ nhàng, linh hoạt. Không cần dùng sức mạnh để cố vẫy tay ra phía sau mà chỉ dùng sức bình thường, tương ứng với nhịp thở điều hòa của cơ thể. Việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống đất cũng vậy. Chỉ cần dùng sức vừa phải nhằm bảo đảm tâm lý thoải mái và thể lực dẻo dai để có thể thực hành đến hàng ngàn cái mỗi lần tập.
Động tác đưa tay về trước là do phản lực quán tính từ phía sau tạo nên. Tuyệt đối không dùng sức. Tầm tay phía trước không vượt quá thắt lưng. Trong suốt quá trình lắc tay, mặc dù cánh tay di động trước sau, nhưng phải luôn duy trì tình trạng thoải mái tự nhiên, cánh tay không gồng sức.
Những người bệnh hoặc có tật ở chân không đứng được vẫn có thể thực hành hiệu quả phất thủ liệu pháp bằng cách ngồi trên đất hoặc trên ván, vẫy tay ở vị thế cánh tay co lại khoảng 90 độ.
Cơ chế tác động của phất thủ liệu pháp
Động tác hít thở phối hợp với lắc tay điều hòa và liên tục tác động vào các cơ ngực và thành bụng, nhất là cơ hoành, giúp xoa bóp các nội tạng, thúc đẩy sự vận hành khí huyết và tăng cường chức năng của các cơ quan. Nó cũng có tác dụng khai thông những bế tắc, ứ trệ trong kinh mạch hoặc tạng phủ. Những người tiêu hóa đình trệ sau khi thực hành khoảng 500-700 cái sẽ có trung tiện hoặc ợ hơi, có cảm giác dễ chịu rất rõ. Phất thủ liệu pháp là phương pháp đơn giản nhất để chữa bệnh đau dạ dày hoặc rối loạn tiêu hóa. Những trường hợp khí nghẽn, khí bế, khí uất do stress, bệnh tật hoặc do tập khí công sai lệch cũng có thể làm cho thông bằng phất thủ liệu pháp.
Theo quan điểm của y học truyền thống và khí công cổ đại, con người và vũ trụ có quan hệ giao hòa thông qua hô hấp. Hai nhà bác học người Pháp Jacqueline Chantereine và Camille Savoire cũng kết luận: “Lực vũ trụ nhập vào con người ở đầu và xuất ra nơi bàn chân phải, âm lực của quả đất nhập vào con người nơi chân trái để lên đến đỉnh đầu ở phía sau ót”. Những động tác của phất thủ liệu pháp tuy đơn giản nhưng đã trực tiếp phát huy quy luật này đối với việc chữa bệnh và tăng cường nội khí.
Ở phía trên, động tác hít thở và lắc tay kích hoạt huyệt Bách hội ở đỉnh đầu và Đại chùy ở giữa hai bả vai để thu thiên khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các đường kinh dương. Bách hội và Đại chùy đều là những điểm giao hội của các đường kinh dương và mạch Đốc.
Ở phía dưới, việc nhíu hậu môn và bám các đầu ngón chân xuống mặt đất kích thích hai huyệt Trường cường và Hội âm ở hai bên hậu môn và tĩnh huyệt của các đường kinh âm. Quan trọng nhất là huyệt Dũng tuyền ở giữa lòng bàn chân và Ẩn bạch ở đầu ngoài móng ngón chân cái. Động tác này có tác dụng hấp thu địa khí, khai thông và tăng cường hoạt động của các âm kinh.
Theo học thuyết Kinh lạc, dương phải thường giáng và âm phải thường thăng. Vì lắc tay liên tục đến hàng ngàn cái nên khi các đường kinh dương được khai thông và đi dần xuống (Dương giáng) điểm cuối ở đầu ngón chân, chúng sẽ tự động kích hoạt những tĩnh huyệt của kinh âm, khiến các đường kinh này chạy ngược trở lên (âm thăng). Đối với các đường kinh âm cũng vậy, khi chạy đến điểm cuối ở phía trên, nó sẽ lại kích hoạt các đường kinh dương đi trở xuống và cứ thế tiếp tục luân chuyển tuần hoàn trong cơ thể. Đây chính là một biểu hiện của quy luật Cực dương sinh âm và Cực âm sinh dương.
Phất thủ liệu pháp có tác dụng cân bằng âm dương, thuận khí, giáng hư hỏa. Theo y học cổ truyền, khí dương thường thừa mà khí âm thường thiếu. Âm hư có thể do bẩm sinh, hay quá căng thẳng, lo âu trong cuộc sống. Sự mất cân bằng đó là đầu mối của nhiều bệnh tật mà Đông y gọi chung là chứng Âm hư Hỏa vượng (hay sốt về chiều, mờ mắt, mắt đỏ, khô cổ, ù tai, đau lưng, hay lở miệng, hay ho, suyễn, viêm họng, viêm xoang mạn). Phất thủ liệu pháp có thể chữa các chứng này bằng cách kích thích các đường kinh âm để sinh âm, bồi bổ âm khí. Chính tư thế của liệu pháp cũng bảo đảm nguyên tắc thượng hư hạ thực (như thư giãn phần vai, cứng chắc phần hạ bộ, nhíu hậu môn, bám các đầu ngón chân…) – biện pháp điều trị hữu hiệu với những chứng hư hỏa. Nguyên tắc này đòi hỏi người tập luôn giữ cho phần trên của cơ thể được thư giãn về hình, hư linh về ý. Ngược lại, phần dưới phải đầy đặn, cứng chắc nhằm đưa trung tâm lực của cơ thể dồn xuống.
Phất thủ liệu pháp cũng giúp điều hòa thần kinh giao cảm. Khoa học hiện đại cho biết trên 50% bệnh tật của con người là do những cảm xúc âm tính gây ra. Chính tâm lý căng thẳng do tình chí uất ức hoặc nhịp sống quá nhanh trong một thời gian dài dễ làm thần kinh quá tải, suy nhược và rối loạn. Sự rối loạn này làm cơ thể mệt nhọc, ăn ngủ kém ngon, giảm sức đề kháng, dễ sinh bệnh tật hoặc làm trầm trọng thêm những chứng bệnh đã có. Nếu tập trung tư tưởng vào nhịp lắc tay, người tập sẽ mất đi những cảm xúc khó chịu thường ngày. Đó là nguyên tắc dùng một niệm để chế vạn niệm.
Theo học thuyết Paplov, khi ta gây hưng phấn ở một điểm và một vùng nhỏ thì những phần còn lại của vỏ não sẽ rơi vào trạng thái ức chế, nghỉ ngơi. Áp dụng những nguyên tắc này, việc tập trung vào lắc tay sẽ điều hòa được thần kinh giao cảm, phục hồi tính tự điều chỉnh, tự hoàn thiện vốn có của hệ thần kinh trung ương.
Tập phất thủ liệu pháp có gây phản ứng nguy hiểm gì không?
Phất thủ liệu pháp có tác dụng kích thích, xúc tiến để cơ thể tự khai thông, tự chỉnh lý; nó không vận khí, không cưỡng cầu nên hiếm khi xảy ra sai lệch. Trong quá trình tập, người tập có thể đau, tức, ngứa ngáy, co giật do việc khai mở một số huyệt vị trên đường kinh hoặc công phá một tổ chức bệnh trước khi những chỗ bế tắc này bị thải trừ hết. Thông thường, những phản ứng trên sẽ tự chấm dứt sau một vài ngày.
Do không rơi vào nhập tĩnh nên khó xảy ra trường hợp người tập bị ảo giác làm rối loạn tâm lý. Phất thủ liệu pháp tác động kích thích đồng thời các huyệt bách hội, hội âm và trường cường. Do đó, bách hội và hội âm tạo ra những van an toàn để trung hòa với chân hỏa phát sinh từ trường cường, khó xảy ra trường hợp chênh lệch thái quá giữa âm và dương nên không gây nguy hiểm cho người tập.
Phất thủ liệu pháp tuân thủ nguyên tắc thượng hư hạ thực và tâm ý quán chiếu Đan điền, khiến năng lượng của cơ thể không chạy lên đầu gây tổn thương cho não, không xảy ra những chứng trạng mà người ta thường gọi là tẩu hỏa nhập ma.
Việc đầu lưỡi chạm nướu răng trên và nhíu hậu môn làm nối liền hai mạch Nhâm, Đốc, tạo ra sự thông nhau giữa hai bể khí âm và dương. Sự tương thông này giúp nội khí tuần hoàn trong thân người, điều hòa âm dương và sinh lực giữa lục phủ ngũ tạng.