I. Quá trình hình thành tôn giáo trên thế
giới.
Trong quá trình phát triển tất
yếu của xã hội loài người cùng với sự phát triển tột bậc của trí tri con người
đã nảy sinh hàng loạt những thắc mắc về nguồn gốc loài người và vũ trụ. Trong
quá trình động giao cảm với thiên nhiên, trí tri con người luôn cố gắng giải
đáp những thắc mắc này, từ đó hình thành nên nền triết học sơ khai luôn cố gắng
giải đáp về nguồn gốc của vạn vật; là tiền đề hình thành nên các tôn giáo trên
thế giới.
Cùng với tiến trình phát triển
của loài người động giao cảm với thiên nhiên đã hình thành nên hai hình thái
chính là tín ngưỡng và tôn giáo giống mà hơi khác nhau. Tín ngưỡng là hệ
thống các niềm tin mà con người tin vào để giải thích thế giới và để
mang lại sự bình an cho cá nhân và cộng đồng và thường mang tính dân gian, dân tộc; trong khi tôn giáo là kết quả
của tất cả các câu trả lời để giải thích nguồn gốc, quan hệ giữa nhân loại và vũ trụ cùng cố gắng giải đáp
những câu hỏi về mục đích, ý nghĩa cuối cùng của sự tồn tại. Chính vì thế những
tư tưởng tôn giáo thường mang tính triết học, là một phương cách để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh
siêu nhiên từ đó làm lợi ích cho vạn vật và con người), giải đáp những gì siêu nhiên, thiêng
liêng hay thần thánh, cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên
quan đến niềm tin đó.
Trong quá trình phát triển của hình hài tượng
thanh lồng ý chuyển ý tiến tới từ tự ngôn ngữ xướng dẫn đến sự phát triển những
xã hội văn minh. Cũng từ cách thức con người giao tiếp với tự nhiên, cảm thông
được thiên địa mà hình thành lên những triết lý hướng dẫn con người sống hòa hợp
với thiên nhiên, vượt lên và phá bỏ những danh lợi tình gây ảnh hưởng xấu tới
con người đã tạo nên những triết gia cố gắng giải đáp về nguồn gốc của loài người
và vũ trụ. Từ đó phát triển thành những đạo giáo như Thiên chúa giáo, đạo Phật,
đạo Hồi, đạo Do thái giáo … hướng tới việc dẫn dắt trí tri ý con người được
hoàn thiện lấy nhân bản làm gốc.
Trong quá trình hình thành của các tín ngưỡng và tôn
giáo trên thế giới, do những hạn chế trong việc phát triển trí tri ý cùng với
thiếu đức thần minh vô tư đã khiến các tôn giáo này không lý giải được tới tận
cùng về nguồn gốc khởi phát của con người, thiên nhiên và vũ trụ, từ đó thần thánh
hóa và lấy thần thánh làm người đã tạo nên vạn vật trong vũ trụ. Họ đã tạo ra
muôn vàn thần thánh từ những động giao cảm của thiên nhiên như thần gió, thần
mây, thần mưa, thượng đế … và trở nên tôn sùng những thần thánh này. Ta có thể
gặp những điều này qua rất nhiều truyện truyền thuyết, huyền thoại, cổ tích và
kể cả những bộ kinh điển của các tôn giáo.
Dân tộc Việt Nam không nằm ngoài tiến trình phát
triển của nhân loại với đạo Lão của nền văn mình phương đông và đạo thờ ông bà
hay tục thờ cúng tổ tiên vừa là đạo mà cũng là tín ngưỡng của dân tộc Bách Việt.
II. Tục thờ ông bà tổ tiên của
người Việt trong nhãn quan DLVN.
Những người con của dân tộc Việt ngay từ lúc lọt
lòng đã được mẹ ru bằng những làn điệu dân ca, bằng thơ lục bát hay bằng những
câu dân ca – tục ngữ.
“Công
cha như núi Thái Sơn
Nghĩa
mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một
lòng thờ mẹ kính cha
Cho
tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Hay là:
“Dù
ai đi ngược về xuôi
Nhớ
ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”
Những câu ca dao nói về tấm lòng của người con đối
với cha mẹ và đối với tổ tiên. Dân tộc Việt Nam cũng là dân tộc duy nhất trên
thế giới có tục lệ giỗ Tổ Hùng Vương đã được Unesco công nhận là di sản văn hóa
thế giới. Nhưng trên hết, đây chính là tâm thức của hàng triệu triệu con tim Việt
cùng hướng tới tổ tiên, cùng hướng về cội nguồn để thờ phụng và tưởng nhớ tới
công sinh thành và mở mang đất nước của các Vua Hùng và các anh hùng của dân tộc
Việt.
Một trong những điều làm nên tinh thần yêu nước, ý
chí kiên cường, quật cường của người Việt chính là trí tri cùng động giao cảm hướng
tới tổ tiên, đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu nên dường như tâm thức của
người Việt đậm bản sắc văn hóa và linh thiêng, luôn đồng lòng sát cánh khi có
quân xâm lược, nhất là kẻ thù truyền kiếp phương Bắc đã bao lần mưu toan đồng
hóa, xóa nhòa văn hóa của người Việt nhưng đều bị thất bại nặng nề.
Đạo thờ cúng ông bà cũng biểu tả tâm thức của người
Việt, ngoài việc tưởng nhớ công ơn sinh thành dưỡng dục của gia tộc, thì sâu xa
hơn là tưởng nhớ tới tổ tiên đã xây dựng, tạo dựng nên một đất nước Việt Nam với
một nền văn hóa sâu đậm bản sắc dân tộc, trong đó đã truyền tải một thông điệp
tới các con cháu của dòng tộc Bách Việt về một chân lý: đó là muốn tìm đến chân
lý thì phải truy nguyên về nguồn gốc, về cội nguồn của nó.
Đạo thờ cúng ông bà của người Việt biểu thị một
triết lý truy nguyên về tận cùng kỳ lý của yếu lý âm dương nhất lý đồng nhi dị.
Cứ đến ngày giỗ Tổ, hàng triệu con tim Việt cùng hướng về đất Tổ, cùng thắp
hương tưởng nhớ tới tổ tiên. Khói hương hòa quyện với đất, trời, người biểu thị
động giao cảm của trí tri con người cùng lúc chung cùng. Từ những đồ cúng tế
như bánh trưng, bánh dày biểu thị trời đất mang trong mình đầy đủ ngũ thần cho
đến làn khói hương biểu thị quá trình động giao cảm đầy linh động, sống động
đưa tâm thức con người trở lại với cội nguồn, khiến cho trí tri của con người
giao cảm với trí trí của người xưa để cùng hòa nhập với tâm thức của tự nhiên,
như nhiên, cảm thông thiên địa và hòa nhập vào tự nhiên.
Đây cũng là quá trình truy nguyên về âm dương nhất
lý từ hiển hiển đến siêu siêu, là quá trình động giao cảm của trí tri con người
được Dịch lý Việt Nam do Thầy Tổ Xuân Phong phát hiện và phát triển, là tiền đề
quan trọng trong việc tìm hiểu về nguồn gốc của vạn vật với những biện minh
logic đầy tính lý tình ý.
Đạo thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt được truyền
lại từ đời này sang đời khác cho thấy tính minh triết của nền văn hóa Việt đã
vượt ra khỏi những tri thức hiện đại khi giải thích về nguồn gốc vạn vật một
cách chặt chẽ. Thông qua đạo thờ cúng ông bà, tổ tiên ta đã truyền tải một
thông điệp quan trọng tới các tầng lớp con cháu, nhắc nhở con cháu muốn biết được
cội nguồn của mình thì phải truy nguyên về nguồn gốc sinh thành, từ đó mở rộng
ra đến vạn vật trong vũ trụ để từ đó nắm hiểu được quy luật biến hóa hóa thành
của vạn vật thông qua yếu lý âm dương nhất lý đồng nhi dị 1 mà 2 mà là 3 là 6
là 8 là 64 biểu tả toàn bộ trạng thái vận động biến hóa hóa thành của vũ trụ từ
lúc hình thành cho đến nay và là quy luật bất biến của tự nhiên.
Đạo thờ cúng tổ tiên của người Việt cũng giống mà
hơi khác với một câu của Lão Tử: “Đạo khả đạo phi thường đạo” biểu thị tính
minh triết, khoa học mà không chấp nhận bất cứ thần thánh nào tạo ra vũ trụ, bản
thân đạo thờ cúng tổ tiên của dân tộc Việt tôn những vị anh hùng dân tộc, những
vị có công với đất nước thành những vị thần như Thánh Gióng, như Tản Viên Sơn
Thánh, như công chúa Liễu Hạnh, như Đức Thánh Trần Hưng Đạo Đại Vương … hay tôn
những người có công khai hoang, mở ấp thành những vị thần của làng hay là vị tổ
nghiệp của làng gọi là Thành hoàng. Đây chính là điểm văn minh của đạo thờ cúng
ông bà của dân tộc Việt vì đạo không chấp nhận những vị thần thánh là người tạo
dựng ra vũ trụ và con người. Không áp đặt con người phải tin theo một vị thượng
đế nào đã tạo dựng nên thế giới bằng trí tưởng tượng của người dân mà ngược lại
đạo hướng con người tới tưởng nhớ, biết ơn tổ tiên, trước tiên là những người
sinh thành ra mình và tiếp đến là những người đã có công với đất nước và dân tộc.
Tất cả những vị thần, thánh hay mẫu trong tâm linh văn hóa Việt Nam đều có nguồn
gốc xuất xứ rõ ràng, đều do những người có công với dân tộc được vinh danh, đó
chính là minh triết của tổ tiên nhằm truyền tải thông điệp cho con cháu về vạn
vật đều có nguồn cội của mình, cũng chính là triết lý Vô toàn Vô của trong Dịch
Lý Việt Nam.
III. Kết luận.
“Trăm
năm bia đá thì mòn
Ngàn
năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”
Bằng triết lý âm dương tiên rồng thể hiện trong từng
hơi thở văn hóa của dân tộc, thông qua tín ngưỡng, lễ tục cũng như vật phẩm và
nhất là đạo thờ ông bà – tổ tiên, từ đó truyền tải những thông điệp cho con
cháu của giống nòi Tiên Rồng của tổ tiên dân tộc Việt đã chứng tỏ được tính minh
triết và khoa học của nền văn hóa Tiên Rồng.
Là con cháu của nền văn minh âm dương Tiên Rồng,
chúng ta phải có trách nhiệm và tâm huyết cùng những tìm tòi, khám phá nhằm
khôi phục và nâng cao vị thế của nền văn hóa Lạc Hồng trong nền văn minh nhân
loại nói chung.
Sài Gòn, ngày 17/9/2013
Nguyễn Đức Thông
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét